|
|
Mục lục
1. Vài đoạn ngắn của giáo pháp
2. Món quà Pháp bảo
3. Bản chất của giáo pháp
4. Hai mặt của thực tại
5. Pháp luyện tâm
6. Sống với rắn độc
7. Ðọc cái tâm thiên nhiên
8. Hãy khởi hành!
9. Vấn đáp
|
|
-ooOoo-
[01]
Vài Ðoạn Ngắn Của Giáo Pháp
T ất cả quý
vị đều có niềm tin nơi Phật Giáo từ nhiều năm qua vì đã được nghe
nhiều người đề cập đến những Lời Dạy của Phật Giáo -- nhất là
các nhà sư và các thầy dạy học ngoài đời. Trong vài trường hợp
Giáo Pháp được giảng dạy một cách bao quát và mơ hồ đến
độ khó hiểu, khó nhận thức, để có thể đem ra thực hành trong đời
sống hằng ngày. Trong những
trường hợp khác, Giáo Pháp được thuyết giảng với ngôn ngữ quá cao
siêu hay với những danh từ quá đặc biệt chuyên môn làm cho
phần đông khó lãnh hội, nhất là khi
lời dạy theo quá sát văn tự của kinh điển. Sau cùng, có một
lối giảng bình dị, thông thường, không quá mơ hồ cũng không quá
sâu sắc, không quá rộng rãi bao quát cũng không quá bí ẩn -- chỉ
vừa phải cho người nghe lãnh hội và thực hành để tự mình thọ hưởng
lợi ích của Giáo Huấn.
Hôm nay Sư muốn chia sẻ với quý vị lời thuyết
giảng Giáo Pháp mà trong quá khứ Sư thường áp dụng để
dạy đệ tử; Giáo Huấn mà Sư hy vọng sẽ có thể mang lợi ích đến
cho từng cá nhân quý vị đang ngồi đây lắng nghe.
Người Có Ước Vọng Ðạt Ðến Phật Pháp
Người có ước vọng đạt đến Giáo Pháp của Ð ức
Phật (Buddha-Dhamma, Phật Pháp) trước tiên phải có đức
tin, hay niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo để làm nền tảng.
Người ấy phải thấu hiểu ý nghĩa của Phật Pháp như sau:
Phật, Buddha - Người giác ngộ, người thông suốt,
người có tâm trong sạch, sáng ngời và thanh bình an lạc.
Pháp, Dhamma - Các
đặc tính của sự trong sạch, sáng ngời và thanh bình an lạc
phát sanh từ Giới, Ðịnh, Tuệ.
Vì lẽ ấy, người có nguyện vọng tiến đạt
đến Phật Pháp là người gia công trau giồi và phát triển
Giới, Ðịnh, Tuệ bên trong mình.
Ði Trên Con Ðường Của Phật Pháp
Lẽ dĩ nhiên, những ai muốn về nhà mình đến
nơi đến chốn sẽ không chỉ giản dị ngồi yên một chỗ rồi suy
tư về cuộc hành trình. Vị ấy phải thật sự dấn thân vào cuộc đi,
bước từng bước một theo đúng chiều hướng, để cuối cùng về đến nhà.
Nếu đi lạc đường họ có thể gặp phải
những khó khăn như bị đầm lầy hoặc các chướng ngại khác, cản ngăn
mà không thể đi bọc vòng quanh.
Hoặc nữa, trong khi lầm đường lạc nẽo
họ có thể rơi vào những hoàn cảnh hiểm nguy và sẽ không bao
giờ về được đến nhà.
Người về đến nhà có thể nghỉ ngơi thoải
mái và an giấc ngon lành -- nhà cửa mình là nơi có đầy
đủ tiện nghi cho cả thân lẫn tâm.
Giờ đây họ thật sự về đến nhà.
Tuy nhiên, nếu khách lữ hành chỉ đi ngang qua trước nhà, hoặc chỉ
đi vòng quanh nhà, thì không thọ nhận được
lợi ích của người đã về đến tận nhà.
Cùng thế ấy, đi trên con đường
nhằm đạt đến Phật Pháp là công trình mà mỗi người chúng ta,
từng cá nhân, phải tự mình gia công nỗ lực, bởi vì không ai khác
có thể làm cho ta. Và chúng ta phải dấn thân đi dài theo con đường
Giới, Ðịnh, Tuệ cho đến khi tìm được quả phúc cao thượng của trạng
thái tâm trong sạch, sáng ngời và thanh bình an lạc, vốn là quả
lành của cuộc hành trình trên con đường. Dầu sao sự hiểu biết
suông qua sách vở và kinh điển, qua những thời Pháp hay những bài
kinh, chỉ giống như kiến thức của người xem bản đồ hay nghiên cứu
kế hoạch đi đường, dầu có phải trải
qua hằng trăm kiếp sống đi nữa, cũng sẽ không bao giờ
biết được trạng thái trong sạch, sáng
ngời, và thanh bình an lạc của tâm. Chỉ hoang phí thì giờ
mà không bao giờ thành đạt những lợi ích của pháp hành. Các bậc
Ðạo Sư là những người chỉ vạch cho ta hướng đi trên con đường.
Sau khi đã nghe lời dạy
của Thầy, có đi theo con đường cùng không, có gia công thực
hành để thọ hưởng những quả lành của con đường cùng không, hoàn
toàn do nơi mỗi người chúng ta.
Một lối nhìn khác là so sánh pháp hành với lọ
thuốc mà vị bác sĩ trao cho bệnh nhân. Trên chai thuốc có những
dòng chữ chỉ dẫn rành mạch với đầy đủ
chi tiết về phương cách dùng thuốc. Tuy nhiên, dầu có đọc
đi đọc lại hằng trăm lần những lời chỉ dẫn ấy, và chỉ làm
có thế thôi, bệnh nhân ắt phải chết, không thọ hưởng lợi ích nào
của thuốc. Có thể trước khi lìa đời
người bệnh ấy sẽ chua cay trách móc, than phiền rằng thầy dở,
thuốc xấu, không chữa được bệnh anh! Anh ta sẽ nghĩ rằng vị
bác sĩ là hạng lang băm, hạng lương y giả mạo, còn thuốc thì không
công hiệu, trong khi ấy anh chỉ phung phí thì giờ để quan sát lọ
thuốc và đọc lời chỉ dẫn. Anh không
theo đúng lời dặn của bác sĩ, không uống thuốc.
Nếu thật sự tuân hành theo lời chỉ dẫn của bác
sĩ và đều đặn uống thuốc, bệnh nhân
sẽ bình phục. Nếu là chứng bệnh trầm trọng bệnh nhân sẽ cần
phải uống thật nhiều thuốc, còn như chỉ ốm đau sơ sài thì người
bệnh chỉ cần uống một ít cũng đủ lành bệnh. Sở dĩ phải uống nhiều
thuốc là vì chứng bệnh của ta trầm trọng. Ðó chỉ là tự nhiên, và
nếu thận trọng suy tư, tự chính ta có thể thấy rõ điều nầy.
Bác sĩ biên toa
cho thuốc để tiêu trừ chứng bệnh của thân. Những lời dạy
của Ðức Phật được ban truyền để chữa
trị những chứng bệnh tâm thần, đem tâm trở về trạng thái lành
mạnh thiên nhiên. Như vậy Ðức Phật có thể được xem là vị bác sĩ
cho thuốc để chữa bệnh của tâm. Trong thực tế, Ngài là bậc Tối
Thượng Y Vương trên thế gian.
Những chứng bệnh tâm linh ấy đều có hiện hữu bê n
trong mỗi người chúng ta, không loại trừ ai. Như vậy, mỗi khi thấy
bệnh mà ta hướng cái nhìn về Pháp Bảo để tìm nương tựa, tìm phương
thuốc trị liệu cho căn bệnh tâm linh
của mình, thì có hợp lý chăng? Trên "con đường
Phật Pháp" ta không đi bằng thân. Cuộc hành trình phải được
trải qua bằng tâm mới thành đạt lợi ích. Và khách lữ hành có thể
được phân làm ba nhóm người ở ba mức độ khác nhau như sau:
Mức độ thứ nhất: bao gồm những người
hiểu biết rằng họ phải tự mình gia công thực hành, và họ cũng hiểu
biết phải thực hành như thế nào. Họ
quy y Tam Bảo, trở về nương tựa nơi Phật, Pháp, Tăng và lập
tâm nhất quyết chuyên cần thực hành Giáo Pháp. Những người ấy chỉ
tự mình tách rời ra khỏi những phong tục tập quán quen thuộc mà họ
đã theo, và dùng lý trí tự mình quán chiếu bản chất thiên nhiên
của vạn pháp. Ðó là nhóm người "Phật tử có đức tin".
Mức độ trung bình:
bao gồm những người nỗ lực thực hành cho đến
khi đức tin nơi Giáo Pháp trở nên vững chắc, tức niềm tin nơi Phật,
Pháp, Tăng của mình không thể còn bị lay chuyển. Các vị nầy
cũng thấm nhuần, tiến sâu vào sự hiểu biết bản chất thật sự của
tất cả các pháp hữu vi. Các Ngài dần dần buông bỏ, giảm bớt bám
níu và luyến ái, không nắm giữ sự vật, và tâm tiến đạt
đến mức sâu sắc thấu triệt Giáo Pháp. Tùy thuộc mức độ
buông bỏ -- tức không luyến ái -- và trí tuệ, các Ngài tiến dần từ
bậc Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, đến A Na Hàm, hay nói một cách giản dị,
các Ngài tuần tự chứng đắc các tầng Thánh.
Mức độ cao nhất: bao gồm những vị mà
pháp hành đã đưa các Ngài đến trạng thái thân, khẩu, ý của Ðức
Phật. Các Ngài đã vượt lên trên thế gian, ra khỏi thế gian, và qua
khỏi mọi hình thức bám níu và luyến ái. Các Ngài được tôn là bậc A
La Hán (Arahat), hoàn toàn giải thoát, mức độ cao siêu nhất trong
các tầng Thánh.
Làm Thế Nào Thanh Lọc Giới Ðức?
Giới đức là thu thúc và kiểm soát thân,
khẩu, khép hành động và lời nói của mình vào khuôn khổ kỷ cương.
Về phương diện nghi thức, giới luật
được phân làm hai hạng: giới cho người cư sĩ tại gia và
giới của hàng xuất gia, tỳ khưu và tỳ khưu ni. Tuy nhiên, một cách
tổng quát, đặc tính căn bản của giới
luật là "tác ý", "ý muốn" nằm phía sau hành động và lời nói.
Khi có chánh niệm, tự hay biết mình, ắt chúng ta suy tư chân chánh
và có "ý muốn làm" chân chánh. Công trình tự hay biết mình và gom
tâm chú niệm sẽ dẫn đến giới đức
thanh cao trong sạch -- giới tịnh.
Ðó chỉ là lẽ dĩ nhiên, khi ta mặc áo quần dơ
dáy và mình mẩy của ta cũng nhơ bẩn thì tâm sẽ cảm nghe kém thoải
mái, bực bội, và khó chịu. Trái lại, nếu chúng ta giữ thân mình
sạch sẽ và quần áo tươm tất gọn gàng thì tâm sẽ cảm nghe nhẹ nhàng
khoan khoái và dễ chịu. Cùng thế ấy, khi giới đức
không được thanh tịnh nghiêm trì, thân và khẩu ắt nhơ bẩn
và đó là nguyên nhân làm cho tâm ưu phiền, sầu muộn và nặng nề.
Chúng ta đã xa lìa pháp hành
chân chánh, và điều nầy gây trở ngại,
không để cho ta thấm nhuần, ăn sâu vào tinh chất nguyên thể
của Giáo Pháp trong nội tâm. Trạng thái lành mạnh trong sạch của
thân và khẩu tùy thuộc nơi mức độ mà tâm được chân chánh rèn luyện,
vì tâm điều khiển hành động và lời nói. Vì lẽ ấy chúng ta phải gia
công thực hành pháp luyện tâm.
Thực Hành Thiền Tập
Thực tập an trụ tâm là pháp hành làm cho tâm
trở nên vững chắc, không chao động. Pháp hành nầy đưa
tâm đến trạng thái an tĩnh, vắng lặng.
Thông thường, cái tâm không được rèn
luyện của chúng ta luôn luôn di động, khó kiểm soát, khó điều
khiển. Tâm bay nhảy điên
cuồng hoang dại theo những mê loạn của giác quan giống như nước
chảy tán loạn đầu nầy đầu kia, tìm
đến nơi thấp nhất. Mặc dầu vậy, các chuyên viên nông nghiệp
và các kỹ sư hiểu biết phải làm thế nào để kiểm soát và dùng nước
vào những việc có lợi ích nhất cho nhân loại.
Con người thông minh, biết cách giữ
chứa nước lại, biết xây đắp những hồ chứa thật rộng lớn, và đào
kinh -- tất cả những công trình nầy chỉ nhắm vào mục đích duy nhất
là dẫn nước và làm cho nước trở nên hữu dụng.
Hơn nữa, nước được tích trữ trong hồ
chứa lại được xử dụng để tạo điện lực, ánh sáng và các công dụng
khác cũng do nhờ ta biết kiểm soát lưu lượng, không để nó tự nhiên
trôi chảy một cách hoang phí và ứ đọng
trong các vũng đầm nhỏ.
Tâm ta cũng vậy. Ðược chứa giữ và kiểm soát,
được cần mẫn và kiên trì rèn luyện, tâm sẽ đem lại những lợi ích
to tát không thể lường. Ðức Phật dạy, "Tâm được
kiểm soát đem lại chân hạnh phúc. Vì lẽ ấy các con hãy gia
công tu tập, rèn luyện tâm mình để thành đạt lợi ích cao thượng
nhất". Các con thú mà ta thấy quanh đây cũng thế, như voi, ngựa,
bò, trâu v.v.. đều phải được tập
luyện mới có thể dùng được. Chỉ khi nào được rèn luyện đầy
đủ, sức mạnh của con vật mới thật sự hữu dụng cho ta.
Một cái tâm được rèn
luyện thuần thục sẽ đem lại phước lành
không biết bao nhiêu lần nhiều hơn là tâm buông lung hoang dại.
Ðức Phật và chư vị Thánh đệ tử của Ngài đều
khởi đầu y như chúng ta -- với cái tâm không được rèn luyện.
Vậy mà về sau, hãy xem các Ngài đã trở nên đối tượng kỉnh mộ tôn
sùng của tất cả chúng ta như thế nào, và hãy nhìn xem bao nhiêu
lợi ích mà chúng ta đã thọ nhận từ những lời dạy của các Ngài. Quả
thật vậy, hãy nhìn xem những lợi ích mà toàn thể thế gian đang
thọ hưởng do những vị đã trải qua suốt công trình luyện tâm
và thành đạt tự do cùng tột. Một cái
tâm được cẩn trọng kiểm soát và rèn luyện ắt cũng được
trang bị hoàn hảo để hỗ trợ chúng ta trong mọi nghề nghiệp, ở mọi
hoàn cảnh. Một cái tâm được uốn nắn
và khép vào khuôn khổ kỷ cương sẽ giữ cho cuộc sống quân
bình, công ăn việc làm dễ dàng hơn và phát triển dưỡng nuôi lý trí
để điều hành các sinh hoạt của
ta. Cuối cùng, hạnh phúc của chúng ta sẽ tăng trưởng cùng nhịp,
tương xứng với pháp luyện tâm thích nghi.
Công trình luyện tâm có thể được thực
hiện theo nhiều đường lối, với nhiều phương thức khác nhau.
Phương pháp hữu ích nhất và có thể được tất cả mọi người -- với
những tâm tánh khác nhau -- áp dụng thực hành là pháp "niệm hơi
thở". Ðó là trau giồi và phát triển tâm, chú niệm hơi-thở-ra,
thở-vào. ở tu viện nầy chúng tôi tập trung sự chú ý vào chót mũi
và gom tâm hay biết nơi hơi-thở-vào và hơi-thở-ra bằng cách niệm
thầm hai chữ "BUD-DHO" như câu chú. Nếu hành giả muốn dùng chữ nào
khác để niệm, hoặc không niệm chữ nào mà chỉ chú tâm vào hơi gió
di chuyển ra vào cũng được. Hành giả thay đổi,
tự điều chỉnh, tìm lối thực hành nào thích hợp nhất với
mình. Yếu tố chánh yếu trong pháp hành là luôn luôn giữ chánh niệm,
luôn luôn ghi nhận, hay biết hơi thở trong khoảnh khắc hiện tại,
để theo dõi gom tâm vào mỗi hơi-thở-vào và mỗi hơi-thở-ra, ngay
lúc nó xảy diễn. Trong khi đi kinh hành,
hãy cố gắng luôn luôn giữ tâm niệm ở cảm giác của bàn chân chạm
xuống đất.
Pháp hành thiền nầy phải được kiên trì thực
hành, càng liên tục càng tốt, để mang lại
kết quả tốt đẹp. Không nên chỉ hành một thời gian ngắn
trong ngày rồi ngưng luôn một hai tuần hay cả tháng mới hành trở
lại. Hành gián đoạn như thế sẽ không gặt hái thành quả. Ðức Phật
dạy nên siêng năng hành thiền, và chuyên cần hành thiền, có nghĩa
là ta phải tận lực cố gắng, giữ cho pháp hành luôn luôn liên tục,
không gián đoạn. Khi hành thiền chúng ta nên tìm một nơi yên tĩnh,
thanh vắng, để có thể hành mà không bị ngoại cảnh làm xao lãng.
Trong vườn hoặc dưới một cội cây có tàng bóng mát mẻ, kín
đáo, phía sau nhà hoặc nơi nào
khác mà ta có thể ở một mình không bị khuấy động, là những nơi
thích hợp. Nếu là tỳ khưu hay nữ tu sĩ thì ta nên tìm một cái cốc
(tịnh thất nhỏ) thích nghi, một khu rừng yên tĩnh hoặc một hang đá
hoang vu vắng vẻ. Cảnh núi non có
nhiều nơi đặc biệt thích nghi với pháp hành.
Trong bất luận trường hợp nào, dù ở đâu, chúng
ta phải nỗ lực gia công chú tâm niệm hơi-thở-ra, thở-vào một cách
liên tục. Nếu sự chú tâm xao lãng, hướng đến
điều gì khác, hãy cố gắng kéo nó trở về đề mục. Cố gắng dẹp
qua một bên tất cả những suy tư hay những lo âu khác.
Không nghĩ đến bất cứ gì. Chỉ
theo dõi bám sát vào hơi thở. Nếu ta giữ chánh niệm, ghi nhận và
hay biết những ý nghĩ ngay lúc nó vừa khởi sanh và chuyên cần quay
về đề mục hành thiền, tâm sẽ càng lúc càng trở nên vắng lặng.
Khi tâm thư thái tự tại và an trụ vững vàng,
hãy buông rơi hơi thở, không dùng hơi thở làm đề mục hành thiền
nữa. Bây giờ hãy quán chiếu thân và tâm (danh và sắc), vốn bao gồm
năm uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Hãy theo dõi và quán sát
năm uẩn ấy ngay lúc nó đến rồi đi.
Ta sẽ thấy rõ ràng rằng ngũ uẩn là vô thường, rằng trạng thái vô
thường làm cho nó là bất toại nguyện và không đáng
được ưa thích, rằng tự nó đến rồi đi -- không có một cái "ngã"
điều khiển sự vật. Chỉ có thiên nhiên, di chuyển theo định
luật nhân quả. Tất cả mọi sự vật trên thế gian đều
nằm trong những đặc tính bất ổn định, bất toại nguyện, và
không có một tự ngã thường còn, hay một linh hồn trường cửu.
Khi nhìn toàn thể kiếp sinh tồn dưới ánh sáng
nầy mọi luyến ái và bám níu vào ngũ uẩn sẽ dần dần suy giảm. Ðó là
do chúng ta thấy được những đặc tính
thật sự của thế gian, bản chất thật sự của vạn hữu.
Ta gọi đó là sự phát sanh trí
tuệ.
Trí Tuệ Phát Sanh
Trí tuệ là nhìn thấy thực tướng những biểu hiện
khác nhau của thân và tâm. Khi dùng cái tâm an trụ và được rèn
luyện thuần thục của mình để quán
chiếu năm uẩn ta sẽ thấy rõ ràng rằng cả hai, thân và tâm,
là vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Thấy tất cả các pháp hữu
vi với trí tuệ như vậy ta không còn luyến ái hay bám níu vào nó
nữa. Bất luận gì thọ nhận, ta thọ nhận với chánh niệm.
Chúng ta không quá đổi vui mừng.
Khi vật gì của ta tan vỡ, hư hoại hay biến tan, chúng ta không quá
âu sầu phiền muộn, và khi bị đau đớn
chúng ta không buồn khổ -- bởi vì ta thấy rõ bản chất vô
thường của tất cả mọi sự vật. Khi lâm bệnh và phải chịu đau nhức
như thế nào đi nữa ta vẫn bình thản, giữ tâm xả, bởi vì tâm của ta
đã được rèn luyện đầy đủ. Tâm
thuần thục là nơi nương tựa thật sự.
Tất cả những điều
nầy được gọi là trí tuệ, cái trí tuệ thấu triệt chân tướng
của sự vật ngay lúc nó vừa khởi sanh. Tuệ phát sanh do niệm và
định. Ðịnh phát sanh từ nền tảng giới luật, hay đức hạnh.
Tất cả những pháp nầy -- giới, định
và tuệ -- tương quan với nhau
rất mật thiết, đến độ không thể thật sự tách rời ra. Theo
kinh nghiệm của pháp hành ta có thể nhìn ba pháp nầy như sau:
Trước tiên, đặt tâm trong khuôn khổ
kỷ luật để niệm hơi thở. Ðó là sự khởi sanh của Giới.
Khi chánh niệm được kiên trì
và liên tục an trụ vào hơi thở cho đến khi trở nên vắng lặng, đó
là sự phát sanh của Ðịnh. Ðến lúc công trình quán chiếu cho thấy
rằng hơi thở là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã, và tiếp theo
đó là tâm buông bỏ, không luyến ái, đến với hành giả. Ðó là sự
phát sanh của Tuệ. Như vậy có thể nói rằng pháp niệm hơi thở là
một pháp môn tu tập nhằm trau giồi và phát triển Giới, Ðịnh, Tuệ.
Cả ba cùng đến chung với nhau.
Khi Giới, Ðịnh và Tuệ đều cùng được trau giồi
và phát triển ta gọi là thực hành Bát Chánh Ðạo. Ðức Phật dạy rằng
đó là con đường duy nhất dẫn thoát ra
khỏi mọi khổ đau.
Bát Chánh Ðạo cao siêu hơn tất cả các pháp, vì
nếu thực hành thích nghi, đó là con đường
đưa thẳng đến Niết Bàn, đến thanh bình an lạc. Ta có thể
nói rằng pháp hành nầy thật sự đưa
đến tận Ðức Phật và Giáo Pháp một cách chính xác.
Những Lợi ích Của Pháp Hành
Khi ta hành thiền như đã được giải thích ở phần
trên, những quả lành của pháp hành nầy sẽ trổ sanh theo ba giai
đoạn như sau:
Trước tiên, đối với những vị hành giả ở mức độ
"Phật tử có đức tin" thì niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng càng tăng
trưởng mạnh mẽ hơn. Niềm tin nầy trở thành nguyên động lực
thật sự dũng mãnh, hỗ trợ bên trong mỗi người. Các vị nầy cũng
thấu hiểu tận tường hơn, bản chất "nhân
sanh quả" của vạn pháp, rằng thiện nghiệp sẽ đưa đến quả lành
và bất thiện nghiệp sẽ đưa đến quả dữ.
Ðối với người như thế ấy hạnh phúc càng thêm dồi dào và nội tâm
càng thêm thanh bình an lạc.
Thứ đến là những vị đã thành đạt các
Thánh Quả Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, hoặc A Na Hàm.
Niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng, của
những vị nầy không còn có thể lay chuyển. Các Ngài vô cùng
an lạc và vững vàng tiến bước trên con đường
dẫn đến Niết Bàn.
Thứ ba là chư vị A La Hán, bậc Toàn Thiện,
những vị đang thọ hưởng loại hạnh
phúc hoàn toàn vượt ra khỏi mọi hình thức đau khổ. Các Ngài
đã là Phật, đã vượt ra khỏi thế gian và đã viên mãn hoàn tất cuộc
hành trình trên Con Ðường của bậc Thánh Nhân.
* * *
Tất cả chúng ta đã có diễm phúc được sanh là m
người và được nghe Giáo Huấn của Ðức Phật. Ðó là cơ hội ngàn vàng
mà hàng triệu chúng sanh khác không được có. Như vậy, chớ nên hờ
hững dể duôi hoặc buông lung không chuyên cần. Hãy nhanh chóng tạo
phước, hành thiện, và noi theo con đường của pháp hành từ đoạn
đầu, đoạn giữa, đến mức độ cao thượng nhất. Không nên để
thời gian trôi qua một cách hoang phí mà không có mục tiêu. Hãy cố
gắng vượt đến chân lý của những lời dạy mà Ðức Từ Phụ đã ban
truyền, ngay trong ngày hôm nay. Bây
giờ, để chấm dứt thời Pháp hôm nay, Sư nhắc lại một bài ca
dao của người Lào, đại ý như sau:
"Nhiều cuộc vui đã tàn, nhiều lạc thú đã
trôi vào dĩ vãng. Trời sắp xế chiều và màn đêm sẽ nhanh chóng rủ
xuống. Giờ đây, đang say sưa với
những dòng lệ tuôn rơi, hãy ngừng nghỉ và nhìn xem,
không bao lâu nữa sẽ quá muộn để viên mãn hoàn tất cuộc
hành trình."
-ooOoo-
[02]
Món Quà Pháp Bảo
(Dưới đây là thời Pháp do Ngài Ajahn
Chah thuyết giảng tại chùa Bung Wai, một ngôi chùa rừng tại tĩnh
Ubon, ngày 10 tháng 10, năm 1977, trước một cử tọa gồm những vị tỳ
khưu, sa di và cư sĩ người Tây Phương. Ngài đặc biệt giảng cho cha
mẹ một vị sư người Pháp, nhân dịp ông bà nầy đến chùa thăm
người con tu học tại đó.)
S ư lấy làm hoan hỷ hôm nay thấy hai Ông
Bà có cơ hội đến viếng Wat Pah Pong và thăm con là một nhà sư đang
tu học tại đây. Nhưng Sư cũng lấy làm tiếc vì không có quà
tặng nào để biếu Ông Bà. Tại Pháp đã
có nhiều vật quý giá, nhưng Giáo Pháp thì quả thật hiếm hoi.
Sư đã có qua bên đó và đã nhìn
thấy tận mắt rằng ở đó không có Giáo Pháp nào khả dĩ thật sự dẫn
đến thanh bình an tĩnh. Chỉ có những
sự vật không ngừng khuấy động tâm tư con người.
Pháp là một quốc gia phồn thịnh, có đời sống
vật chất phong phú dồi dào và có nhiều quyến rũ đủ loại
để kích thích giác quan: sắc, thinh, hương, vị, xúc. Tuy
nhiên, người không thông hiểu Giáo Pháp sẽ bị rối loạn và lạc lối
giữa dòng lôi cuốn mê ly ấy. Do vậy, hôm nay Sư thân tặng hai Ông
Bà một ít Giáo Pháp để mang về quê nhà như một món quà của Wat Pah
Pong và Wat Pah Nanachat.
Giáo Pháp là gì? Giáo Pháp là cái gì có thể cắt
ngang và chận đứng, làm suy giảm dần dần và tận diệt những vấn đề
phiền phức và những khó khăn của nhân loại. Ðó là cái được gọi là
Giáo Pháp. Và đó là cái gì phải được nghiên cứu và học hỏi hằng
ngày, xuyên qua suốt kiếp sống, để
mỗi khi có một cảm xúc khởi phát chúng ta có thể đối phó và
vượt qua một cách an toàn.
Tất cả chúng ta đều phải gặp những vấn đề khó
khăn, dầu sống ở Thái Lan hay trong một quốc gia nà o khác.
Nếu ta không biết phương cách để giải
quyết ắt phải chịu đau khổ và phiền muộn âu sầu.
Phép mầu có khả năng giải quyết những
vấn đề khó khăn của đời sống là trí tuệ, và muốn thành đạt
trí tuệ phải rèn luyện, phát triển và trau giồi tâm.
Ðối tượng của pháp
môn tu tập nầy không phải ở đâu xa lạ mà nằm ngay trong
thân và tâm của ta. Dầu người Phương
Tây hay người Thái cũng vậy, ai ai cũng đều có thân và tâm,
sắc và danh. Thân tâm rối loạn có nghĩa là con người rối loạn.
Thân tâm an lạc là con người an lạc.
Trong thực tế, cũng như nước mưa, bản chất
thiên nhiên của tâm là trong sạch. Mặc dầu vậy, nếu ta nhỏ vào
nước mưa trong trẻo một vài giọt màu, màu xanh chẳng hạn, nước sẽ
trở nên xanh. Nếu nhỏ màu vàng, nước sẽ vàng. Phản ứng của tâm
cũng dường thế ấy. Khi vài "giọt" cảm thọ thoải mái dễ chịu được "nhỏ"
vào tâm, tâm sẽ thoải mái dễ chịu. Những thọ cảm bực bội khó chịu
sẽ làm cho tâm bực bội khó chịu. Giống như nước có pha màu, tâm sẽ
trở nên "lu mờ", không còn trong trẻo.
Pha lẫn màu vàng vào nước trong, nước sẽ vàng.
Pha màu xanh, nước sẽ xanh. Nước đổi
màu mỗi khi pha trộn với màu. Trong thực tế, bản chất thiên
nhiên thật sự của nước, dầu xanh hay vàng, vốn là trong trẻo và
sạch sẽ. Trạng thái thiên nhiên của tâm cũng vậy, sạch sẽ và trong
trẻo, tinh khiết và an tĩnh. Những thọ cảm khác nhau làm cho tâm
trở nên rối ren cuồng loạn; tâm bị lạc lối giữa mê hồn trận, trong
những cơn buồn vui lẫn lộn của cuộc sống.
Ðể Sư giải thích rõ thêm.
Hiện giờ chúng ta đang ngồi tại khu
rừng an tĩnh nầy. ở đây không
có gió. Lá cây im lìm, không chao động. Khi có gió thoảng
qua thì lá cây rung chuyển, phất phơ. Tâm cũng như chiếc lá. Khi
tiếp nhận thọ cảm tâm cũng "rung chuyển và phất phơ" như lá, tùy
thuộc và tương ứng với bản chất của loại thọ. Càng ít hiểu biết
Giáo Pháp tâm càng liên tục theo đuổi những thọ cảm nhiều hơn. Nếu
là cảm giác sung sướng, thọ lạc, tâm rơi vào trạng thái hạnh phúc.
Nếu là đau đớn, thọ khổ, tâm sẽ bị
lôi cuốn vào buồn khổ. Mãi mãi bị rối loạn! Trong cả hai
trường hợp, đàng nào tâm cũng
bị khuấy động.
Cuối cùng người ta bị loạn thần kinh. Tại sao?
Bởi vì họ không hiểu biết! Họ chỉ chạy theo cảm xúc vui buồn tùy
hứng và không biết phải làm thế nào để
chăm sóc cái tâm của mình. Khi
tâm không được ai trông nom chăm sóc thì nó giống như trẻ con
không cha không mẹ, không được ai trông chừng dạy dỗ. Ðứa
bé mồ côi không nơi nương tựa ắt phải sống trong tình trạng vô
cùng bấp bênh, bất an toàn.
Cùng một thế ấy, nếu cái tâm không được giữ gìn
chăm sóc, nếu nó không được rèn luyện
thuần thục theo đường hướng của chánh kiến, thì rõ thật là
phiền phức.
Phương pháp rèn luyện tâm mà Sư sẽ tặng cho quý
vị hôm nay là kammatthàna. "Kamma" là hành động.
"Thàna" là nền tảng. Trong Phật
Giáo, đây là pháp làm cho tâm thanh bình, vắng lặng, phương
pháp mà quý vị áp dụng để rèn luyện tâm.
Với tâm được rèn luyện, quý vị
sẽ quán chiếu thân.
Con người gồm có hai thành phần: thân là một,
và phần kia là tâm. Chỉ có hai phần ấy. Phần mà chúng ta gọi là "thân"
thì mắt thịt có thể thấy. Còn "tâm" thì không có hình tướng vật
chất. Chỉ có thể thấy tâm được bằng "nội
nhãn", hay "tâm nhãn", mắt của tâm. Cả hai thành phần nầy
-- thân và tâm -- đều ở trong trạng
thái luôn luôn biến chuyển, luôn luôn chao động.
Tâm là gì? Tâm không phải thật sự là "cái gì".
Theo ngôn ngữ quy ước thông thường, tâm là cái gì cảm thọ hay tri
giác. Cái gì cảm thọ và kinh nghiệm tất cả mọi cảm giác được gọi
là tâm. Trong khi Sư đang ngỏ lời cùng
quý vị, chính cái "tâm" của quý vị cảm nhận và hiểu biết những gì
Sư nói. Âm thanh lọt vào tai, và quý vị biết Sư nói gì. Cái gì
hiểu biết đó là "tâm".
Cái tâm ấy không có thực chất hay tự ngã. Nó
không có hình thể. Nó chỉ kinh nghiệm những sinh hoạt tâm linh,
thế thôi! Nếu chúng ta rèn luyện, dạy dỗ cho cái tâm ấy có được
cái nhìn chân chánh (chánh kiến) nó sẽ không gặp khó khăn mà sẽ
được thoải mái dễ chịu.
Tâm là tâm. Những
đối tượng của tâm là đối tượng của tâm. Ðối tượng của tâm
không phải là tâm. Tâm không phải là đối tượng của tâm. Nhằm hiểu
biết rành rẽ cái tâm và những đối tượng của nó, ta nói rằng tâm là
cái gì thọ nhận, và đối tượng của tâm là cái gì "thoạt nhiên nhảy
vào" tâm.
Khi hai yếu tố -- tâm và đối tượng của nó --
tiếp xúc với nhau thì có thọ khởi sanh.
Những thọ cảm nầy có thể tốt hay xấu,
có thể lạnh, có thể nóng, đủ tất cả loại!
Nếu không có trí tuệ để đối phó với
những thọ cảm ấy tâm sẽ bị rối loạn.
Hành thiền là đường
lối trau giồi tâm để có thể dùng tâm nầy làm căn bản cho
trí tuệ khởi sanh. Nơi đây, hơi thở
là nền tảng vật chất. Chúng ta gọi là Ànàpànasati,
niệm hơi-thở-ra, thở-vào. Dùng hơi thở làm đối tượng của tâm, tức
lấy hơi thở làm đề mục hành thiền, bởi vì dùng nó giản tiện nhất
và cũng vì từ ngàn xưa hơi thở vẫn là trung tâm điểm của pháp hành
thiền.
Khi có cơ hội tốt để ngồi thiền, chúng ta ngồi
tréo hai chân lại, chân mặt đặt trê n chân trái và tay mặt
trên tay trái. Giữ lưng ngay thẳng và lập tâm tự nhủ, "Bây giờ ta
sẽ buông bỏ, để cho tất cả những gánh nặng và những lo âu trôi
qua". Ta không muốn điều gì sẽ
gây phiền não lo âu. Trong hiện tại hãy để
cho tất cả những băn khoăn lo ngại trôi qua.
Giờ đây hãy tập trung sự chú tâm vào hơi
thở, rồi thở vào, thở ra. Trong khi nỗ lực ghi nhận và hay biết
hơi thở, không nên cố ý làm cho nó dài ra hay ngắn lại. Cũng không
nên làm cho nó mạnh hay yếu. Hãy để nó trôi chảy bình thường và tự
nhiên. Sự chú niệm và tự hay biết mình, phát sanh trong tâm, sẽ
biết hơi-thở-vào và hơi-thở-ra.
Hãy cứ tự nhiên thoải mái.
Không suy tư điều gì.
Không cần phải nghĩ đến việc nầy hay
điều nọ. Chỉ có một việc phải làm là gom tâm chăm
chú đặt trên hơi thở-vào và hơi-thở-ra. Không có gì khác
phải làm, chỉ có bao nhiêu đó! Giữ tâm niệm vững chắc bám sát
hơi-thở-vào và hơi-thở-ra, đúng ngay lúc nó xảy diễn. Khi thở vào,
hơi thở bắt đầu từ chót mũi, xuống
đến ngực, và chấm dứt nơi bụng. Khi thở ra thì ngược lại,
bắt đầu nơi bụng, lên đến ngực và chấm dứt ở mũi. Hãy trau giồi
tâm, hay biết hơi thở: 1. Tại chót mũi, 2. Ở ngực, 3. Nơi bụng.
Rồi ngược lại: 1. Nơi bụng, 2. Ðến ngực và 3. Ở chót mũi.
Vững vàng an trụ tâm vào ba điểm ấy sẽ làm suy
giảm những lo âu. Không nên suy tư
đến bất luận gì khác! Hãy cứ giữ tâm ở hơi thở. Những ý
nghĩ khác có thể khởi sanh. Tâm sẽ
chụp lấy một đề tài nào khác và xao lãng. Không nên lo. Hãy
kéo tâm về và cột chặt trở lại vào hơi thở vì hiện thời đó là đề
mục của pháp hành. Có thể tâm vướng mắc trong tình trạng đang tìm
hiểu hay xét đoán những cảm xúc của ta lúc bấy giờ, nhưng hãy cứ
tiếp tục pháp hành, luôn luôn hay biết từ đoạn
đầu, đoạn giữa, đến đoạn cuối cùng của hơi thở.
Ðến một lúc nào tâm sẽ luôn luôn hay biết hơi
thở nơi ba điểm ấy. Khi thực
hành như vậy trong một thời gian, tâm và thân sẽ quen thuộc với
công trình tu tập nầy, không còn nghe mệt mỏi. Ta sẽ cảm nghe cơ
thể nhẹ nhàng hơn và hơi thở sẽ trở nên ngày càng vi tế. Công phu
chú niệm và tự hay biết mình sẽ canh phòng và bảo vệ tâm.
Chúng ta thực hành như vậy cho đến khi tâm vắng
lặng và an lạc chỉ còn một. Một ở đây
có nghĩa là tâm sẽ trọn vẹn và hoàn toàn an trụ vào hơi thở,
sẽ bám chắc vào, không tách rời ra khỏi hơi thở.
Tâm sẽ không vọng động, không rối
loạn, mà ở trong trạng thái tự tại, nhàn lạc.
Nó sẽ hiểu biết lúc khởi đầu, đoạn
giữa và nơi chấm dứt hơi thở.
Ðến chừng ấy tâm thật an tĩnh, ta chỉ giữ chặt
nó ở hơi thở-vào, thở-ra tại chót mũi, không còn theo dõi xuống
bụng và trở lên mũi nữa. Chỉ an trụ vững
chắc tâm ngay tại điểm mà hơi gió chạm vào mũi.
Hành như vậy được gọi là "lắng tâm", làm cho
tâm trở nên vắng lặng, thoải mái dễ chịu và an lạc. Lúc ấy, khi
trạng thái vắng lặng khởi sanh thì tâm dừng lại.
Tâm dừng lại để chỉ an trụ vào một
điểm duy nhất, hơi thở. Ðó là trau giồi, phát triển tâm
thanh bình an lạc để trí tuệ có thể phát sanh.
Ðây là giai đoạn
đầu tiên, xây đắp nền tảng cho pháp hành của chúng ta. Phải
tận lực thực hành mỗi ngày, từng ngày một, bất luận ở đâu mà ta có
thể hành. Dầu ở nhà, đi trên xe, nằm hoặc ngồi, phải giữ chánh
niệm, hay biết và luôn luôn nhìn cái tâm của mình.
Ðó là pháp luyện tâm mà ta phải cố gắng thực
hành trong tất cả bốn oai nghi: đi,
đứng, nằm, ngồi, không phải chỉ lúc ngồi (tọa thiền) mà luôn cả
khi đi, khi đứng và nằm. Ðiểm quan trọng là phải biết trạng
thái tâm của mình trong mỗi khoảnh khắc. Muốn làm được vậy phải
luôn luôn giữ chánh niệm, ghi nhận và hay biết. Tâm vui hay buồn?
Tâm có vọng động không? Có an
tĩnh không? Khi hiểu biết tâm như vậy nó sẽ trở nên vắng lặng. Tâm
có vắng lặng trí tuệ mới phát sanh.
Với tâm vắng lặng nầy bây giờ ta hãy quán thân,
đề mục hành thiền của mình. Quán
chiếu từ đỉnh đầu xuống đến lòng bàn chân, và từ bàn chân
trở lên đỉnh đầu.
Lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy.
Nhìn và thấy tóc, lông, móng, răng và da. Trong pháp hành nầy ta
sẽ thấy rằng toàn thể thân mình được cấu thành do bốn nguyên tố:
đất, nước, lửa và gió.
Những phần cứng và ở thể đặc của thân do nguyên
tố đất cấu thành. Những thành phần lỏng do nguyên tố nước. Hơi,
chạy lên xuống trong cơ thể do nguyên tố gió, và nhiệt độ của thân
là do nguyên tố lửa.
Bốn nguyên tố ấy cấu hợp lại thành cái được gọi
là "cơ thể con người". Tuy nhiên, khi phân chia thân nầy ra từng
thành phần cấu tạo của nó thì chỉ còn lại bốn nguyên tố ấy. Chỉ có
bốn nguyên tố ấy còn lại. Ðức Phật dạy rằng không có "chúng sanh"
tự mình hiện hữu, không có con người, không có người Thái hay
người Tây Phương, không có một cá nhân. Ðến mức cùng tột chỉ có
bốn nguyên tố ấy. Chỉ có vậy thôi!
Chúng ta giả định rằng có một người, một "chúng sanh", nhưng trong
thực tế không có cái gì như vậy.
Dầu ta phân chia ra từng loại như đất, nước,
lửa, gió hay hợp chung lại, và dán lên trên cái giả hợp ấy
nhãn hiệu "con người", tất cả đều vô thường, phải
chịu đau khổ, và vô ngã. Tất
cả đều bấp bênh, không bền vững, bất ổn định, và ở trong trạng
thái luôn luôn biến chuyển, không thể ngừng đổi thay, dầu trong
một khoảnh khắc vi tế.
Thân của ta bất ổn định, hư hoại, và luôn luôn
biến đổi. Tóc biến đổi, móng
tay móng chân biến đổi, răng biến đổi, da biến đổi -- mỗi mỗi đều
biến đổi, tất cả đều hoàn toàn biến đổi.
Tâm của ta cũng vậy, cũng luôn luôn biến đổi.
Nó không phải là tự ngã hay cái gì có thực chất. Nó không phải
thật sự là "ta", cũng không phải là "chúng nó", mặc dầu tâm có thể
nghĩ như vậy. Tâm có thể nghĩ đến tự
sát. Tâm có thể nghĩ đến hạnh
phúc, hay nghĩ đến đau khổ -- nghĩ đủ chuyện.
Nó không ổn định. Nếu ta không
có trí tuệ và tin rằng cái tâm nầy là của mình, nó sẽ lừa dối và
luôn luôn phỉnh gạt ta. Và chúng ta sẽ hạnh phúc và đau
khổ, đau khổ và hạnh phúc, hết hạnh phúc đến đau khổ, hết đau khổ
đến hạnh phúc, triền miên không cùng tận.
Tâm nầy bấp bênh, bất ổn định. Thân nầy bấp
bênh, bất ổn định. Cả hai cấu hợp lại là nguồn cội
của đau khổ. Cả hai cấu hợp
lại không có tự ngã thường còn. Phật Giáo chỉ vạch sáng tỏ rằng cả
hai không phải là một chúng sanh, không phải một người, không phải
tự ngã, không phải là linh hồn trường cửu, không phải ta, không
phải chúng nó -- mà chỉ là những nguyên tố:
đất, nước, lửa, gió. Chỉ là
những nguyên tố!
Khi ta quán chiếu và thấy rõ rằng tất cả là vô
thường, khổ và vô ngã ắt sẽ không còn bám níu vào một cái ta, một
con người nam hay nữ. Cái tâm mà đã thấu triệt thông suốt như vậy
sẽ hướng về trạng thái nhàm chán thế gian, về hạnh buông bỏ không
luyến ái, hướng đến Niết Bàn. Tâm ấy sẽ thấy tất cả mọi sự vật là
vô thường, khổ và vô ngã. Chừng ấy tâm dừng lại. Tâm là Giáo Pháp.
Tham, sân, si sẽ suy giảm và biến dạng dần dần cho đến khi cuối
cùng, chỉ còn có tâm -- chỉ còn lại cái tâm thanh tịnh. Ðó là "pháp
hành thiền".
* * *
Ðến đây Sư yêu cầu hai Ông Bà hãy nhận lãnh món
quà Pháp Bảo mà Sư lấy làm hân hạnh trao tặng ngày hôm nay để
đem về nghiên cứu học hỏi và quán tưởng hằng ngày. Xin Ông
Bà hãy nhận quà tặng Giáo Pháp nầy của hai chùa, Wat Pah Pong và
Wat Pah Nanachat, xem như một di sản tinh thần.
Tất cả quý Sư ở đây, trong đó có con
của hai Ông Bà, và tất cả quý vị Thiền Sư, trao tặng đến
Ông Bà Giáo Pháp nầy để đem về Pháp
quốc. Giáo Pháp nầy sẽ rọi
sáng cho con đường dẫn đến trạng thái tâm an tĩnh, sẽ làm
cho tâm trở nên vắng lặng, tự tại và không giao động. Thân Ông Bà
có thể bị xáo trộn, nhưng tâm sẽ không bị. Những người khác trên
thế gian có thể bị phiền lụy và rối ren, Ông Bà thì không. Mặc dầu
trong xứ có thể bị hỗn loạn, nhưng Ông Bà sẽ không bị, bởi vì tâm
của Ông Bà sẽ ở trong tình trạng đã có thấy, tâm là Giáo Pháp. Ðây
là con đường chân chánh, là đường lối thích nghi.
Ngưỡng mong rằng trong tương lai Ông Bà sẽ còn
nhớ Lời Dạy nầy.
Ngưỡng mong Ông Bà được an lành và hạnh phúc.
-ooOoo-
[03]
Bản Chất Của Giáo Pháp
(Dưới đây là một thời Pháp do Ngài AJAHN
CHAH thuyết giảng cho một nhóm đệ tử người Tây Phương tại chùa
Bung Wai, Thái Lan, trong mùa an cư kiết hạ năm 1977).
M ột cội cây
ăn trái trổ hoa đầy cành. Thỉnh thoảng một ngọn gió nhẹ
nhàng thoáng qua, thổi bay rải rác xuống đất
những tai hoa đang tung nở. Vài nụ còn trên cây, nở ra
thành trái non. Ngọn gió khác thổi qua, cùng thế ấy làm một vài
trái xanh rơi rụng. Trên cành vẫn còn những trái khác gần già hoặc
đã già và những trái đã chín mùi, chờ ngày lìa cành.
Con người cũng cùng một thế ấy. Cũng như hoa và
trái trước những cơn gió của đời sống con người cũng rơi rụng vào
nhiều lứa tuổi khác nhau. Có trẻ con chết từ khi còn trong bụng mẹ.
Những em bé khác lìa đời chỉ vài ngày sau khi được sanh ra. Những
em khác nữa sống vài năm rồi ra đi.
Cũng có những thanh thiếu niên, nam hay nữ, chết trong tuổi
xuân xanh, và những vị khác, niên cao tuổi lớn, tuy đã già yếu mà
vẫn còn thọ, nhưng rồi cũng sẽ cất bước lên đường.
Trong khi suy gẫm về kiếp nhân sinh, ta hãy
nghĩ nhớ đến bản chất phù du của hoa và trái trước gió -- cả hai
đều rất bấp bênh, bất ổn định, không có gì chắc chắn.
Bản chất bấp bênh không bền vững nầy cũng có
thể được thấy trong đời sống ở các tự
viện. Vài người đến chùa với ý định xuất gia, lắm khi họ đã xuống
tóc. Rồi đổi ý ra về. Vài người khác đã xuất gia sa di, nhưng
quyết định hoàn tục. Có người chỉ xuất gia trong ba tháng
Hạ, rồi trở về với cuộc sống tại gia cư sĩ. Chỉ giống như hoa và
trái trước gió -- rất bấp bênh, không có gì chắc chắn.
Tâm của ta cũng dường thế ấy. Một thọ cảm phát
sanh, kéo tới đẩy lui cái tâm, rồi tâm rơi rụng -- giống như hoa
và trái.
Ðức Phật thấu hiểu
đặc tính bấp bênh của vạn hữu. Ngài quan sát hiện tượng hoa
quả trước gió và suy gẫm về các vị tỳ khưu và sa di, đệ tử Ngài,
và nhận thức rằng các vị nầy cốt yếu cũng cùng một bản chất bấp
bênh, không chắc chắn. Làm thế nào khác hơn được? Ðó chỉ là con
đường của tất cả mọi sự vật.
Như vậy, đối với vị hà nh giả luôn luôn
cảnh giác, không cần phải có người khuyên nhủ và dạy dỗ dài dòng
để có thể nhìn thấy và lãnh hội. Trường hợp Vua Chanokomun, tiền
thân của Ðức Phật trong một kiếp sống quá khứ xa xưa, là một thí
dụ. Ngài không cần học hỏi nhiều. Chỉ quan sát một cây xoài là tất
cả những gì Ngài đã làm để có thể thấu hiểu sự vật.
Ngày kia, trong khi ngồi trên thớt tượng để
cùng với một nhóm quần thần dạo chơi trong công viên, Vua thoáng
nhìn thấy vài cây xoài có trái chín nặng trĩu trên cành.
Vào lúc ấy Vua không thể dừng lại kịp thời nên
nghĩ thầm, để chuyến đi trở về sẽ
dừng lại hái vài trái thưởng thức. Tuy nhiên, Vua không ngờ
rằng các vị đại thần từ phía sau đi
đến, nhìn thấy xoài ngon, xúm lại dùng cây, vừa thọc vừa
quơ đập lung tung cho trái rụng. Ðập tới đập lui, không mấy lúc
cây xoài gãy nhánh và rụng lá tơi bời, trở nên xơ xác, cằn cỗi trơ
trọi.
Vào buổi chiều đi trở lại ngang qua vườn xoài,
Vua còn đang tưởng tượng mùi vị ngon ngọt của những trái xoài chín
cây thì hết sức ngạc nhiên chỉ còn thấy những cây xoài cành lá xơ
rơ xác rác, không còn trái đâu nữa.
Vua lấy làm thất vọng và bất mãn. Rồi Vua nhìn
sang phía bên kia thấy một cây khác bên cạnh, cành lá vẫn còn
nguyên vẹn. Vua tìm hiểu tại sao, và sớm nhận thức rằng vì cây nầy
không có trái. Nếu cây không có trái thì không ai khuấy nhiễu và
do đó, không ai làm gãy cành rơi lá. Bài học nầy thấm sâu vào tâm
tư của nhà vua trên đường ngự giá hồi cung: "Kiếp sống làm vua
thật là khó khăn, phiền muộn và đầy bực dọc. Luôn luôn cần phải lo
lắng cho tất cả thần dân. Lại còn biết bao phiền lụy hơn nữa nếu
có mưu toan tấn công, cướp giựt, hay xâm chiếm phần nào của vương
quốc?" Mãi suy tư Vua không thể an giấc. Dầu có ngủ đi nữa cũng
chiêm bao mộng mị.
Hình ảnh cây xoài không trái với cành lá sum sê
tươi tốt nguyên vẹn luôn luôn lảng vảng trong tâm. Rồi Vua suy tư:
"Nếu chúng ta trở thành giống như cây xoài không trái nầy, cành và
lá của chúng ta ắt cũng sẽ như vậy, không bị tổn hại".
Vua ngồi trong cung thất, trầm tư mặc tưởng.
Cuối cùng lãnh hội và thấm nhuần bài học của cây xoài, Vua quyết định
xuất gia, sống đời tu sĩ. Vua tự ví mình như cây xoài và
nghĩ rằng nếu không dấn thân vương víu trong đường lối của thế
gian ắt ta sẽ trở nên độc lập, tự do, không còn phải bận bịu lo âu,
không còn phải đương đầu với những
khó khăn phiền phức, và tâm trí sẽ không bị khuấy động. Suy tư như
thế rồi Vua ra đi.
Kể từ lúc ấy, bất luận đến đâu, khi có ai hỏi
thầy của Ngài là ai thì Ngài liền đáp, "là cây xoài". Ngài
không cần phải thọ nhận giáo huấn dông dài. Chỉ một cây xoài đủ
làm bừng tỉnh và đưa Ngài thẳng vào Opanayiko Dhamma, Giáo
Pháp hướng trở vào nội tâm. Nhờ sự giác tỉnh nầy Vua trở thành một
nhà sư, người có ít bận bịu lo âu, người sống tri túc, biết
đủ với chút ít gì mà mình có, người biết thỏa thích trong
cuộc sống ẩn dật, an tĩnh, đơn độc
một mình. Ngài từ bỏ cuộc sống trên nhung lụa của đời vương
giả và cuối cùng được thanh bình an lạc.
Trong câu chuyện, lúc bấy giờ Ðức Phật là một
vị Bồ Tát đang nỗ lực liên tục tiến bước trên con đường hướng về
Ðạo Quả Phật. Cũng như Ðức Phật vào thời làm Vua Chanokomum, chúng
ta phải nhìn quanh và quan sát, bởi vì tất cả mọi sự vật trên thế
gian đều sẵn sàng giáo huấn, cung ứng cho ta bài học.
Dầu chỉ với chút ít trí tuệ trực giác chúng ta
sẽ có thể lãnh hội rõ ràng, xuyên qua đường lối của thế gian.
Chúng ta sẽ thấu hiểu rằng mọi sự vật trên thế gian là một vị thầy.
Cây cối và dây leo chẳng hạn, có thể hé mở cho ta thấy bản chất
của thực tại. Với trí tuệ, không cần phải hỏi ai cả, không cần
phải học với ai. Ta có thể học nơi thiên nhiên, đủ
để giác ngộ, như trường hợp Vua Chanokomum, bởi vì tất cả mọi sự
vật đều theo con đường của Chân Lý, không tách rời ra khỏi Chân Lý.
Tác phong tự tại và tự chế kết hợp với trí tuệ,
và hai đức tính nầy -- tự tại và tự chế -- có thể khai triển tuệ
minh sát, đưa ta tiến sâu vào vị trí thông suốt đường lối của
Thiên Nhiên. Bằng cách ấy chúng ta sẽ thấu triệt chân lý cùng tột
của vạn pháp là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã (Aniccà, Dukkha và
Anattà). Thí dụ như cây. Tất cả những cây cối trên quả địa
cầu đều như nhau, là "Một", khi ta nhìn xuyên qua thực tại
"Vô Thường, Khổ, Vô Ngã". Trước tiên cây mọc lên, lớn, và già,
trong lúc ấy không ngừng biến đổi,
cho đến khi cằn cỗi và chết, như mỗi cây
đều phải chết.
Cùng thế ấy, người và thú được sanh ra, trưởng
thành và không ngừng biến chuyển trong suốt thời gian ấy cho đến
khi qua đời. Những biến đổi khác nhau xảy diễn vô số lần trong
khoảng thời gian chuyển tiếp từ sanh đến tử đã chỉ rõ Con
Ðường của Giáo Pháp, tức nói lên đặc tính thiên nhiên của vạn pháp
là vô thường, hư hoại và tan rã.
Nếu giác tỉnh và thông suốt, nếu nghiên cứu học
hỏi với trí tuệ và chánh niệm, chúng ta sẽ thấy Giáo Pháp (Dhamma)
là thực tại. Vậy chúng ta sẽ thấy con người luôn
luôn được sanh ra, trưởng thành và cuối cùng chết. Mỗi
người, và tất cả mọi người, đều phải trải qua vòng quanh sanh và
tử. Vì lẽ ấy mỗi người trong vũ trụ là "Một" chúng sanh, tất cả
đều in nhau. Như vậy, khi nhận thấy rõ ràng và tường tận một người
thì cũng giống như ta thấy tất cả mọi người trên thế gian.
Cùng thế ấy, tất cả mọi sự vật là Giáo Pháp.
Không phải chỉ những sự vật được thấy bằng mắt thịt mà chí đến
những sự vật thấy trong tâm cũng vậy. Một ý nghĩ khởi sanh, rồi
biến đổi và tan biến. Ðó là Danh Pháp (Nàma-Dhamma),
chỉ giản dị là một cảm thọ tâm linh khởi phát và trôi qua. Ðó là
bản chất thật sự của tâm. Chung hợp lại, đó là Diệu Ðế của Giáo
Pháp, hay Chân Lý thâm diệu cao siêu của Giáo Pháp. Nếu không nhìn
và không quan sát bằng đường lối nầy
ắt ta sẽ không thật sự thấy! Nếu thấy, ắt ta sẽ có trí tuệ để lắng
nghe Giáo Pháp mà Ðức Thế Tôn đã ban truyền.
--Ðức Phật ở đâu?
--Ðức Phật ở trong Giáo Pháp.
--Giáo Pháp ở đâu?
--Giáo Pháp ở trong Ðức Phật. Ngay tại đây, trong hiện tại.
--Tăng Già ở
đâu?
--Tăng Già ở trong Giáo Pháp.
Phật, Pháp và Tăng hiện hữu trong tâm chúng ta,
nhưng ta phải thấy rõ ràng. Vài người chỉ chụp lấy câu nói và mỗi
khi có cơ hội, họ mạnh dạn lặp lại, "ồ, Phật, Pháp và Tăng hiện
hữu trong tâm tôi." Nhưng pháp hành của họ không thích ứng, hoặc
không thích nghi và do đó, không xứng
đáng để có thể cung thỉnh Phật, Pháp, Tăng ngự vào trong
tâm của họ. "Cái tâm" trước tiên phải là tâm thông hiểu Giáo Pháp.
Ðem mọi sự vật trở về điểm nầy của Giáo Pháp ta
sẽ biết rằng Chân Lý thật sự có hiện hữu trên thế gian và như vậy,
chúng ta có thể nương theo pháp hành để chứng ngộ.
Thí dụ "Danh Pháp" (Nàma-Dhamma)
như những thọ cảm, những suy tư, tưởng tượng v.v... tất cả đều bất
ổn định, không chắc chắn vững bền. Khi sân hận phát sanh, nó tăng
trưởng và biến đổi, rồi cuối cùng tan biến. Hạnh phúc cũng vậy,
phát khởi, tăng trưởng và biến chuyển, rồi cuối cùng tan
biến. Tất cả đều trống rỗng. Nó không phải thật sự là "cái gì".
Mãi mãi, đường lối của tất cả mọi sự vật -- cả tinh thần lẫn vật chất
-- đều là như vậy. Bên trong chúng ta có thân và tâm. Bên
ngoài có cây cối, các loại dây leo và các vật khác. Tất cả đều
phơi bày rõ ràng định luật phổ thông về bản chất bấp bênh, không
chắc chắn của toàn thể vạn pháp.
Dầu là một cội cây, một hòn núi hay
một con vật, tất cả đều là Giáo Pháp, mọi sự vật là Giáo
Pháp. Giáo Pháp ở đâu? Ở cùng khắp. Một cách giản dị, không có gì
không phải là Giáo Pháp. Cái "không phải là Giáo Pháp" không hiện
hữu. Giáo Pháp là Thiên Nhiên. Ðó là "Sacca Dhamma", Giáo
Pháp của chân lý, Giáo Pháp đúng với
chân lý. Nếu ta thấy Thiên Nhiên tức là ta thấy Giáo Pháp.
Nếu thấy Giáo Pháp, tức thấy Thiên Nhiên. Khi thấy Thiên Nhiên ta
thấu hiểu Giáo Pháp.
Và như vậy, học hỏi thật nhiều có lợi ích gì,
khi mà chân lý cùng tột của đời sống, trong mỗi khoảnh khắc, trong
mỗi hành động, chỉ là một vòng sanh và tử, lẩn quẩn loanh quanh vô
cùng tận? Nếu ta giữ chánh niệm, ghi nhận và giác tỉnh trong khi đi,
đứng, nằm, ngồi, thì sự tự hay biết mình đã sẵn sàng để
phát khởi. Ðó là thấu hiểu chân lý
của Giáo Pháp, đã có hiện hữu nơi đây và trong hiện tại.
Trong hiện tại, Ðức Phật -- vị Phật thật sự --
vẫn còn sống, bởi vì Ngài chính là Giáo Pháp, "Sacca Dhamma".
Và "Giáo Pháp của Chân Lý" mà giúp làm cho ta có thể thành Phật
vẫn hiện hữu tồn tại. Giáo Pháp ấy không lẩn trốn nơi nào cả!
Giáo Pháp ấy làm khởi phát hai vị Phật: một
trong thân, và vị Phật khác trong tâm.
"Giáo Pháp thật sự", Ðức Phật dạy Ngài Ànanda,
"chỉ có thể chứng ngộ bằng pháp hành". Người thấy Giáo Pháp là
thấy Phật. Người thấy Phật là thấy Giáo Pháp. Tại sao? -- Trước
kia không có Phật. Chỉ sau khi Ðạo Sĩ Siddhattha Gotama chứng ngộ
Giáo Pháp Ngài mới trở thành Phật. Nếu chúng ta giải thích như vậy
thì Ngài cũng như ta. Nếu chứng ngộ Giáo Pháp ắt chúng ta cũng sẽ
thành Phật, y như Ngài. Ðó là vị Phật trong tâm hay Danh Pháp (Nàma-Dhamma).
Phải giữ chánh niệm trong mỗi việc mà ta làm,
bởi vì chính ta sẽ trở thành người thừa kế, lãnh trọn di sản của
những nghiệp, thiện cũng như bất thiện, của mình. Hành thiện, gặt
quả lành. Làm điều ác, gặt quả dữ. Không cần tìm ở đâu xa vời. Chỉ
nhìn vào cuộc sống hằng ngày của ta cũng đủ
thấu hiểu điều nầy. Ðạo Sĩ Siddartha Gotama đã giác tỉnh và
chứng ngộ Chân Lý ấy. Và do nhờ vậy mà có một vị Phật xuất hiện
trên thế gian. Cùng thế ấy, nếu mỗi người và tất cả mọi người thực
hành và chứng đắc Chân Lý, chừng ấy
họ cũng vậy, tất cả đều sẽ tự mình biến đổi và trở thành
Phật.
Ðức Phật vẫn còn đây. Nghe vậy vài người sẽ lấy
làm hoan hỷ nói rằng: "Nếu Ðức Phật vẫn hiện hữu thì tôi còn có
thể thực hành Giáo Pháp!" Ðó là đường lối mà ta phải nhìn vào vấn
đề.
Giáo Pháp mà Ðức Phật chứng ngộ là Giáo Pháp
hiện hữu trên thế gian một cách thường xuyên, và ta có thể ví như
nước mạch trong lòng đất, luôn luôn
hiện hữu dưới đất. Người muốn đào giếng lấy nước phải
đào sâu vào lòng đất, đủ sâu
để gặp mạch nước. Nước mạch vẫn hiện hữu. Người kia không tạo nên,
mà chỉ khám phá ra mạch. Cùng thế ấy, Ðức Phật không sáng tạo Giáo
Pháp. Ngài cũng không đặt để hay ban
hành Giáo Pháp. Ngài chỉ khám phá ra cái gì đã sẵn có. Do
nhờ công phu quán niệm Ðức Phật đã thấy Giáo Pháp. Vì lẽ ấy ta nói
rằng Ðức Phật giác ngộ, bởi vì giác ngộ là thông suốt, thấu triệt
Giáo Pháp. Giáo Pháp là Chân Lý của thế gian. Vì Ngài thấy Giáo
Pháp nên người ta tôn gọi Ngài là Phật. Và Giáo Pháp là cái gì làm
cho những người khác cũng trở thành Phật, "Người Hiểu Biết", người
thấu triệt Giáo Pháp.
Những ai có phẩm hạnh thanh cao và có niềm tin
vững chắc nơi Phật-Pháp (Buddha-Dhamma)
sẽ không bao giờ kém giới đức và từ bi. Với sự hiểu biết,
ta sẽ thấy rằng thật sự ta không cách xa Ðức Phật. Chúng ta ngồi
đây, trước mặt Ngài, đối diện với Ngài. Khi thấu triệt Giáo Pháp
ta sẽ thấy Ðức Phật.
Nếu thực hành thật sự đầy
đủ ta sẽ nghe được Phật- Pháp (Buddha-Dhamma), dầu
ngồi dưới gốc cây, hoặc nằm, hay ở trong bất cứ oai nghi nào. Ðây
không phải là điều gì mà ta chỉ nghĩ đến suông. Nó phát sanh trong
một cái tâm trong sạch. Chỉ hồi nhớ suông những dòng chữ nầy ắt
không đủ, bởi vì đây là vấn đề thấy Giáo Pháp, chỉ tùy thuộc nơi
khả năng thấy Giáo Pháp chớ không phải bất luận gì khác. Vậy, ta
phải quyết định gia công thực hành để có thể thấy, và đến chừng ấy
pháp hành của ta mới viên mãn. Bất luận nơi nào mà ta ngồi, đứng,
đi, hay nằm, chúng ta cũng sẽ nghe Giáo Pháp.
Ðể có thể thực hành những "Lời Dạy" của Ngài (Phật
Pháp), Ðức Phật khuyên nên sống nơi thanh vắng và gia công luyện
tập thu thúc lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Sáu căn là
nền tảng của pháp hành, bởi vì đó là những nơi mà tất cả sự vật
phát sanh, và sự vật chỉ khởi phát ở các nơi ấy. Ta thu
thúc lục căn để có thể thấu rõ những nhân duyên phát sanh
tại nơi nầy. Tất cả những gì thiện và bất thiện đều phát khởi
xuyên qua sáu căn. Lục căn là những
khả năng quan trọng nhất trong cơ thể. Mắt là yếu tố chánh
trong sự thấy; tai là yếu tố chánh trong sự nghe; mũi, trong sự
hửi; lưỡi, trong sự nếm; thân, trong sự xúc chạm, nóng, lạnh, cứng,
mềm v.v.. , và ý là yếu tố chánh trong sự thọ cảm. Chúng ta phải
củng cố xây dựng pháp hành của mình quanh quẩn sáu căn ấy.
Pháp hành nầy được dễ dàng vì Ðức Phật
đã đặt để và ban truyền rành
mạch tất cả những gì cần phải làm. Giống như Ðức Phật đã trồng cây
xuống và mời chúng ta đến ăn trái.
Phần chúng ta khỏi phải trồng cây. Dầu là những gì thuộc về
Giới, Ðịnh hay Tuệ, không cần phải sáng tạo, đặt
để, hay tranh luận dông dài. Tất cả những gì cần phải làm đều
đã sẵn có trong Giáo Huấn của Ðức Bổn Sư.
Chúng ta vô cùng may mắn và có rất nhiều phước
lành mới được nghe Lời Dạy của Ðức Phật. Cây ăn
trái đã được trồng sẵn. Trái đã sẵn sàng chín mùi. Mọi sự
vật đều được chuẩn bị, trọn
vẹn và toàn hảo. Tất cả chỉ còn thiếu người đến hái trái và thưởng
thức -- người có đủ niềm tin để thực
hành! Ta phải nhận thức rằng phước báu và may mắn của ta
quả thật là hy hữu và vô giá. Chỉ cần nhìn quanh để thấy bao nhiêu
chúng sanh khác rất là bất hạnh; hãy nhìn xem những con chó, con
heo, con rắn và những chúng sanh khác. Chúng quả thật bất hạnh,
không được duyên lành để học hỏi Giáo
Pháp, không được cơ may để thực hành Giáo Pháp. Ðó là những
chúng sanh bất hạnh đang gặt hái sự báo ứng của nghiệp bất thiện
mà chúng đã gieo trồng trong quá khứ. Khi không có được
cơ hội may mắn để nghiên cứu học hỏi, để hiểu biết và để thực hành
Giáo Pháp, ắt không có cơ may thoát ra khỏi đau khổ.
Ðã là người, là một chúng sanh trong cảnh người,
ta không nên để mình trở thành nạn nhân của bất hạnh, thiếu kém
phẩm hạnh thích nghi và nếp sống kỷ cương trong giới luật. Chớ nên
để mình trở thành nạn nhân của số phần bất hạnh! Có nghĩa là người
không hy vọng tiến đến Con Ðường Giải Thoát, Con Ðường đưa
đến Niết Bàn, không hy vọng trau giồi giới đức. Không nên
nghĩ rằng chúng ta đã tuyệt nhiên không còn hy vọng! Nghĩ như vậy
chúng ta sẽ trở thành nạn nhân của hoàn cảnh bất hạnh, cũng như
các sinh vật khác.
Chúng ta là những người đã nằm trong vùng ảnh
hưởng của Ðức Phật. Như vậy, trong
cảnh người chúng ta đã có đủ phước báu và cơ may, đủ phương tiện.
Nếu ta tự sửa sai, phát huy đường hướng suy tư và sự hiểu
biết của mình trong hiện tại thì việc làm nầy sẽ dẫn ta đến phẩm
hạnh và pháp hành thích nghi để có thể thấy và thấu triệt Giáo
Pháp, ngay trong kiếp sống làm người hiện tại.
Không giống như chúng sanh trong các cảnh giới
khác, ta nên sớm thức tỉnh trong sự chứng ngộ Giáo Pháp. Ðức Phật
dạy rằng trong khoảnh khắc hiện tại có Giáo Pháp hiển hiện nơi đây,
ngay trước mắt ta. Ðức Phật ngồi hướng về phía chúng ta, ngay tại
đây và trong hiện tại. Ta còn đợi chờ
đến lúc nào hay nơi nào khác mới nhìn?
Nếu không suy tư chân chánh, nếu không thực
hành thích nghi, ta sẽ té rơi, sa đọa vào những khổ cảnh: thú, địa
ngục hay ngạ quỷ. Vậy thì sao? Hãy nhìn thẳng vào tâm của mình.
Nếu sân hận phát sanh, cái gì đó? Nó
đây rồi, chỉ nhìn! Khi si mê phát sanh, cái gì đây? Chính
là nó, ngay tại đây! Khi tham ái phát sanh, cái gì đây? Hãy nhìn
vào nó, ngay chính nơi nầy!
Vì không nhận ra và không thấu triệt tận tường
những trạng thái tinh thần ấy nên tâm biến chuyển, không còn là
loại tâm của loài người. Tất cả các pháp hữu vi đều
ở trong trạng thái luôn luôn đang trở thành. Trạng thái trở
thành đưa đến tái sanh, và tái
sanh như thế nào tùy thuộc nhân duyên hiện tại. Như vậy chúng ta
trở thành và sẽ có cuộc sống như thế nào do tâm tạo duyên.
-ooOoo-
[04]
Hai Mặt Của Thực Tại
(Dưới đây là thời Pháp do Ngài AJAHN
CHAH thuyết giảng tại Wat Pah Pong,
Thái Lan, trước một cử tọa gồm những vị tỳ khưu, sau khi đọc tụng
Giới Bổn, Patimokkha).
T rong đời
sống của chúng ta, hai trường hợp có thể xảy ra: hoặc dể
duôi lợi dưỡng trong những sự vật của thế gian, hoặc vươn mình
vượt qua khỏi thế gian. Ðức Phật là người đã thoát ra khỏi thế
gian, và do vậy Ngài chứng đắc Giải Thoát Tinh Thần.
Cùng thế ấy, sự hiểu biết của chúng ta cũng có
hai loại: hiểu biết về những sự vật trong thế gian, và hiểu biết
có tính cách tinh thần đạo đức, hay
trí tuệ thật sự. Nếu chúng ta chưa thực hành và chưa tự
mình rèn luyện thì dầu có thâu đạt bao nhiêu kiến thức, những kiến
thức ấy vẫn còn thuộc về thế gian, không đưa
đến giải thoát.
Quý vị hãy suy tư và nhìn thật sự tận tường!
Ðức Phật dạy rằng những sự vật của thế gian quấn quít quây cuồng
thế gian. Cái tâm đeo đuổi theo những
sự vật của thế gian sẽ rối loạn vướng mắc trong thế gian, trầm
mình đắm chìm trong ô trược, dầu đến hay đi, mà không bao
giờ thỏa mãn. Con người thế gian lúc nào cũng mong mỏi tìm một cái
gì, nhưng không bao giờ tìm được đầy
đủ như ý nguyện. Kiến thức trần gian thật sự là si mê,
không phải là kiến thức bao gồm sự hiểu biết rõ ràng, do đó không
bao giờ chấm dứt. Nó mãi mãi quây quần, chạy theo những mục tiêu
của người thế gian, tích trữ tài sản, thâu đạt quyền thế, mưu tìm
danh vọng và lạc thú. Ðó là một khối ảo tưởng mà chúng ta đã lầm
lạc bám chặt, dính kẹt vào.
Mỗi khi chúng ta được thê m vật gì ắt có
ganh tỵ, lo âu, và ích kỷ. Và khi cảm nghe bị đe dọa mà về phương
diện vật chất ta không thể tự bảo vệ thì chúng ta vận dụng trí não
để sáng tạo đủ loại phương kế và dụng
cụ, đủ loại khí giới, chí đến khí giới hạt nhân, chỉ để tàn
sát, phanh thây lẫn nhau.
Tại sao có những phiền nhiễu và khó khăn như
vậy? Ðó là đường lối của thế gian. Ðức Phật dạy rằng nếu ta quây
cuồng chạy theo nó ắt không thể chấm dứt.
Còn pháp môn thực hành để giải thoát! Không dễ
gì sống điều hợp đúng theo trí tuệ
thật sự, nhưng những ai thật sự khẩn thiết mong tìm Ðạo và
Quả và có nguyện vọng thành đạt Niết Bàn sẽ có thể kiên trì và
nhẫn nại chuyên cần. Nhẫn nại là biết đủ và thỏa mãn với chút ít:
ít ăn, ít ngủ, ít nói và sống đạm bạc.
Bằng cách làm như vậy ta có thể chấm dứt những gì thuộc về thế
gian.
Nếu mầm mống của những gì thuộc về thế gian
chưa được bứng nhổ tận gốc rễ ắt
chúng ta sẽ còn mãi mãi bị phiền lụy và rối loạn trong một
vòng lẩn quẩn vô cùng tận. Dầu quý Sư
đã xuất gia, nó vẫn tiếp tục kéo lôi, sáng tạo cho quý Sư
những quan kiến và những ý niệm, và nó sẽ nhuộm màu, tô điểm, làm
đẹp đẽ thêm những suy tư của
quý Sư. Nó là vậy.
Người ta không nhận thức! Người ta nói rằng
mình đã làm xong điều nầy hay việc nọ trong thế gian. Con người
luôn luôn hy vọng hoàn thành mọi việc.
Cũng giống như vị bộ trưởng của một
chính phủ mới, hăng say bắt tay vào nhiệm vụ mới. Vị ấy
nghĩ rằng mình có đầy đủ những giải
đáp thỏa đáng cho mọi vấn đề, rồi dẹp qua một bên những gì
người trước đã làm. Ông ta nói, "Hãy nhìn xem! Chính tôi sẽ hoàn
tất mọi việc". Ðó là tất cả những gì mà người ta thực hiện: dẹp
cái nầy đi, đem cái kia lại, dọn dẹp tới lui, mà không bao
giờ hoàn tất điều gì. Họ có cố gắng, nhưng không bao giờ thật sự
viên mãn hoàn thành.
Ta không thể làm điều gì vừa lòng tất cả mọi
người. Người thích ít, kẻ ưa nhiều, người nầy ưng ngắn, người nọ
chịu dài, vài người đòi mặn trong khi ấy vài người khác lại muốn
có nhiều gia vị. Làm cho mọi người hợp chung lại và đồng thuận,
vừa ý với nhau là điều không thể được.
Tất cả chúng ta đều muốn hoàn thành một
điều gì trong đời, nhưng thế gian vô cùng phức tạp nầy làm cho ta
hầu như không thể hoàn tất điều gì một cách thật sự viên mãn.
Chí đến Ðức Phật, sanh trưởng
với tất cả mọi thuận lợi của một hoàng tử cao sang, vẫn không thể
thật sự hoàn mãn viên thành điều nào trong cuộc sống ở thế gian.
Cạm Bẫy Của Giác Quan
Ðức Phật đề cập
đến sự ham muốn, hay ái dục, và sáu đối tượng làm thỏa mãn
lòng ham muốn: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ham muốn, khát
khao mong cầu hạnh phúc và đau khổ, những gì tốt đẹp và những gì
xấu xa v.v.. lòng khát khao ham muốn lan tràn và ẩn sâu, thấm
nhuần vào tất cả.
(Lời người dịch: "Mong cầu hạnh phúc và đau
khổ". Ðoạn nầy thoạt nghe hình như vô nghĩa.
Người ta mong cầu hạnh phúc chớ bao
giờ có ai mong cầu đau khổ. Nhưng theo pháp Thập Nhị Nhân
Duyên, "Ái" phát sanh tùy thuộc nơi "Thọ". Ðại khái, Thọ có ba
loại là: thọ lạc, thọ khổ, và thọ vô ký.
Không phải chỉ có thọ lạc, hay cảm
giác hạnh phúc, mới tạo điều kiện cho Ái phát sanh. Ái
cũng phát sanh do thọ khổ. Ái ở đây
là thương mà cũng có nghĩa là ghét, vì ghét là một hình
thức của thương, theo chiều ngược lại. Thí dụ như trong cơn
phiền não con người thèm khát (Ái) được ra khỏi hoàn cảnh bất
hạnh ấy và mong mỏi, nóng lòng, ước muốn, được hạnh phúc an vui,
hoàn cảnh ngược lại. Tóm tắt, người nghèo nàn thiếu
thốn, người bệnh hoạn ương yếu, tật nguyền -- những người chịu
thọ khổ -- khao khát mong cầu (Ái) được an toàn vui vẻ).
Sắc .. không có sắc nào như hình thể người phụ
nữ. Có phải vậy không? Có phải chăng
thân hình thật sự đẹp đẽ của một thiếu phụ làm cho ta muốn
nhìn? Một bóng dáng mỹ miều xinh đẹp
đi thoáng qua, "xẹp, xẹp, xẹp..." ta không thể đừng ngước mắt lên
chăm chú nhìn! Còn tiếng động (thinh) thì sao? Không có âm
thanh nào trói buộc ta chặt chẽ bằng tiếng nói của người phụ nữ.
Nó đi thẳng vào, đâm xuyên qua
tim! Mùi cũng vậy, mùi thơm của người phụ nữ có năng lực quả thật
mãnh liệt. Không có mùi nào như vậy.
Rồi vị giác, không có thức ăn nào mà hương vị có thể sánh
bằng hương vị của người đàn bà. Xúc giác cũng vậy, tâng tiu vỗ về
một thiếu nữ làm cho ta tê tái, say mê và cuồng loạn.
Vào thời xưa tại Taxila, Ấn Ðộ, có một vị phù
thủy nổi tiếng là đại tài. Ông có một
đệ tử, và tận tụy hết lòng dạy trò tất cả những bùa phép và
thần chú. Khi người đệ tử đã
tinh thông lão luyện, đủ sức tự lực cánh sinh và sẵn sàng ra đi,
thì lời khuyên nhủ cuối cùng của vị thầy trứ danh là:
"Thầy đã dạy con đầy đủ tất cả những
phù phép và bùa chú mà thầy biết.
Những con vật có răng nhọn hay những
con có nanh vuốt dữ tợn, chí đến những con vật có ngà to lớn đi
nữa con cũng không cần phải sợ. Con
đã có đủ khả năng để tự bảo vệ, chống lại những con ác thú ấy,
thầy có thể đoan chắc với con như vậy. Tuy nhiên, chỉ có
một điều duy nhất mà thầy không thể chắc chắn bảo vệ được con, và
đó là sắc đẹp kiều diễm của người phụ nữ [*]. Ðến đây thì thầy
không thể giúp con. Không có bùa phép hay thần chú nào để bảo vệ
con chống lại nó, mà chính con phải tự bảo vệ lấy con.
[*] Trong bản
tiếng Thái, người phụ nữ được gọi là những con vật có sừng mềm ở
ngực. Như vậy, những con vật có răng nhọn, có nanh, có ngà,
thì con không cần sợ, nhưng con phải sợ con vật có sừng mềm.
Pháp, tức đối tượng của tâm, khởi phát trong
tâm do lò ng ham muốn: muốn tài sản quý giá, muốn giàu sang
phú quý v.v... luôn luôn lo nghĩ và, nói một cách tổng quát, chạy
theo những sự vật. Mặc dầu vậy loại thèm khát nầy không đến nỗi
sâu hiểm hay mãnh liệt lắm. Nó không
đủ năng lực để làm cho ta mất trí hay làm cho ta không thể
tự kiểm soát. Nhưng khi lòng khát khao ham muốn đượm nhuần tính
cách thiên về tình dục khởi phát thì ta không còn có thể tự kiểm
soát. Ðến chừng ấy ta có thể quên tất cả, luôn cả những vị đã dày
công sanh thành dưỡng dục -- chính cha mẹ ta!
Ðức Phật dạy rằng đối tượng của giác quan là
cạm bẫy, cạm bẫy của Ma Vương. Ma
Vương phải được hiểu là những gì gây tai hại cho ta. cạm
bẫy là cái gì trói buộc ta, giống như cái lưới rập. Ðó là cạm bẫy
của Ma Vương, cái lưới rập của người thợ săn, và người thợ săn là
Ma Vương. Tình trạng của con vật mắc bẩy trong lưới rập quả thật
là đáng thương. Nó bị quấn buộc chặt chẽ và nằm đó
chờ người thợ săn đến bắt. Quý
vị có bao giờ đi rập chim không? Cái rập nhanh chóng bật
lên và "bụp!", cổ chim bị quấn chặt! Lúc bấy giờ sợi nhợ siết chắc
cổ con chim. Dầu nó có vùng vẩy hay bay nhảy đi
đâu cũng không thoát khỏi. Nó
rán sức bay đầu nầy nhảy đầu kia nhưng cổ bị trói chắc.
Chim chỉ còn chờ người chủ lưới rập.
Khi người ấy đến, chim kinh hoàng sợ hãi -- không còn lối
thoát.
Cạm bẫy của thinh, hương, vị, xúc, pháp, cũng
dường thế ấy. Nó bắt chúng ta và trói buộc chặt chẽ. Nếu ta còn
vương víu trong nhục dục ngũ trần, ắt cũng như con cá mắc lưỡi câu.
Khi người thợ câu đến, dầu có vùng
vẫy chiến đấu thế nào cá cũng không thể thoát thân. Ðúng ra
thì lúc bấy giờ ta không giống hệt như cá, mà giống con ếch mắc
câu hơn -- con ếch nuốt luôn lưỡi câu vào tận ruột. Cá chỉ mắc câu
ở miệng.
Người say mê chìm đắm trong dục lạc của giác
quan cũng vậy. Người ghiền rượu chẳng hạn, ngày nào mà lá gan của
anh chưa bị tiêu diệt thì anh ta vẫn còn chưa biết uống bao nhiêu
là đủ. Anh mãi mê buông lung rượu chè và say sưa vô độ.
Anh đã mắc câu.
Về sau anh phải khổ đau, bệnh hoạn.
Trong một cuộc hành trình dài dẳng, người kia
đi trên đường rất khát nước và hết lòng mong mỏi được
uống một bụm cho đỡ khát. Anh dừng lại bên đàng, vào nhà
xin nước uống. Chủ nhà có sẵn nước, chỉ cho anh biết và nói, "Nước
có sẵn kia! Nếu anh muốn thì cứ uống đi. Màu nước trong veo đẹp
đẽ, mùi thơm, vị ngọt, nhưng nếu uống vào anh sẽ lâm trọng
bệnh. Tôi phải nói trước cho anh biết rõ như vậy. Uống nước nầy
vào, anh sẽ bệnh nặng, nếu không chết thì cũng gần chết."
Khách đi đường vì quá khát
nước nên không nghe lời cảnh cáo. Anh khát khao thèm uống một chút
nước, giống như người vừa bị giải phẫu, bị cấm không cho uống, kêu
la đòi nước.
Người khát khao chạy theo nhục dục cũng dường
thế ấy. Ðức Phật dạy rằng đó là thuốc độc -- sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp là thuốc độc, là cạm bẫy vô cùng nguy hiểm. Nhưng người
khát nước kia không nghe lời khuyên nhủ. Vì khát khao thèm muốn,
anh vừa rơi lệ vừa kêu la: "Hãy cho tôi uống nước!
Dầu có phải chịu hậu quả đớn đau thế
nào tôi cũng sẽ cam chịu, miễn là được uống chút nước!" Và
anh ta hớp một hớp nước, nuốt vào ngon lành -- thật là đã khát.
Rồi anh uống, uống thêm nữa, uống đầy bụng ... và ngã bệnh gần
chết. Anh không khứng nghe lời người chủ nhà vì khát khao thèm
uống cho được miếng nước. Lòng khát khao ham muốn quá mãnh liệt.
Con người bị vướng mắc trong lạc thú của giác
quan cũng dường thế ấy. Người ấy tìm giải khát trong sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp -- tất cả đều thơm ngon! Và người ấy mãi mê
thỏa mãn lòng khát khao, vui "uống" mà không ngừng, rồi bị dính
kẹt, ngày càng kẹt cứng, cho đến ngày chết.
Con Ðường Của Thế Gian Và Tình Trạng Giải Thoát
Vài người chết, vài người khác hầu như đã chết
-- vướng mắc, dính kẹt trong đường lối của thế gian là vậy.
Trí khôn của người thế gian đeo đuổi
chạy theo nhục dục ngũ trần.
Dầu có khôn ngoan sáng suốt đến đâu nó chỉ khôn ngoan theo
ý nghĩa của người thế gian. Dầu có mãnh lực quyến rũ đến
độ nào, nó chỉ quyến rũ theo ý nghĩa của người thế gian.
Dầu nó đem lại nhiều hạnh phúc đến
đâu, đó chỉ là những hạnh phúc hiểu theo ý nghĩa của người
thế gian, không phải là hạnh phúc giải thoát, không thể đưa ta
vượt ra khỏi thế gian.
Chúng ta đến đây, sống đời tu sĩ và thực
hành để đi sâu vào và thấm
nhuần trí tuệ thật sự, để buông bỏ mọi bám níu. Hãy tinh tấn thực
hành để vượt khỏi mọi bám níu! Hãy quán chiếu thân, quán chiếu mọi
sự vật quanh mình cho đến chừng nào trở nên mệt mỏi và chán chê
tất cả. Ðến chừng đó tâm buông bỏ sẽ phát sanh.
Dầu sao đi nữa tâm buông bỏ, tâm
không bám níu, không luyến ái, sẽ không phát sanh dễ dàng đâu, bởi
vì ta chưa thật sự thấy rõ ràng tường tận.
Chúng ta đến đây và thọ giới tỳ khưu.
Chúng ta học hỏi, nghiên cứu, đọc
kinh điển, chúng ta thực hành, chúng ta hành thiền. Và
chúng ta nhất quyết tự tạo cho mình một ý chí bất khuất.
Nhưng điều nầy quả thật khó.
Ta quyết tâm hành thiền theo một pháp môn nào. Ta tự nhủ là phải
hành như vậy -- chỉ một ngày, hai ngày trôi qua, hoặc nữa, có thể
chỉ một vài giờ trôi qua ta đã quên tất cả những ý định ấy.
Rồi ta sực nhớ lại và cố gắng quyết định chắc
chắn một lần nữa, "lần nầy ta quyết phải làm đúng như vậy!" Không
bao lâu sau ta lại bị ảnh hưởng của một giác quan nào lôi cuốn,
kéo rời xa mục tiêu. Một lần nữa, mọi cố gắng tan vỡ, và ta lại
phải bắt đầu làm lại tất cả! Thông thường là như vậy.
Cũng như con đê nhằm ngăn chận nước mà
người ta đắp không vững chắc, pháp hành
của ta còn non nớt. Ta chưa có đủ khả
năng để thấy và chưa hành đúng theo pháp hành chân chánh.
Và pháp hành của ta tiếp tục diễn tiến như vậy cho đến khi ta
thành đạt trí tuệ thật sự. Một khi
thấm nhuần, ăn sâu vào Chân Lý thì ta thoát ra khỏi tất cả.
Chỉ còn thanh bình an lạc.
Sở dĩ tâm ta còn chưa được thanh bình an lạc là
vì nó vẫn còn chứa chấp những thói xưa tật cũ. Chúng ta thừa hưởng
các thói quen xưa cũ ấy từ những hành động trong quá khứ. Nó theo
dính liền và không ngừng quấy rầy ta.
Ta chiến đấu, tìm lối thoát ra khỏi, nhưng nó đã trói buộc
chặt chẽ và kéo lôi ta trở lại. Những thói quen ấy không quên vùng
đất cũ xưa, phạm vi hoạt động của nó.
Nó níu chắc, bám sát vào tất cả những sự vật quen thuộc từ thời
xa xưa để xử dụng, để vui thích ngắm nhìn và tiêu thụ --
cuộc sống của chúng ta là vậy.
Như tình yêu giữa nam và nữ.
Người nữ tạo vấn đề khó khăn cho
người nam. Người nam tạo vấn
đề khó khăn cho người nữ. Thông thường là vậy, nam và nữ
đối nghịch lẫn nhau. Nếu người nam sống chung với người nam ắt
không có phiền toái. Nếu người nữ
sống chung với người nữ ắt không có vấn đề. Khi một người
nam nhìn thấy người nữ thì tim đập "đùng,
đùng", giống như chày giã gạo. Ðó là gì?
Những năng lực ấy là gì? Nó
lôi cuốn và thu hút ta vào. Không ai nhận thức rằng có một giá nào
mà ta phải trả!
Tất cả mọi sự vật đều cù ng thế ấy. Dầu
ta cố gắng thế nào để vươn mình vượt thoát, ngày nào còn chưa nhận
thức được giá trị của trạng thái giải thoát và chưa nhìn thấy đau
khổ trong vòng trói buộc thì ta vẫn còn chưa có thể buông bỏ.
Thông thường người ta chỉ thực hành chịu đựng khổ nhọc, khép mình
vào kỷ cương của giới luật, mù quáng theo đúng những hình thức
nghi lễ, mà không hướng về mục tiêu thành đạt tự do, hay giải
thoát. Ta phải nhận thức giá trị của sự buông bỏ, không bám níu
vào những dục vọng của mình, trước khi có thể thật sự thực hành.
Chí đến chừng ấy mới có thể thực hành
thật sự.
Tất cả những gì ta làm, phải làm một cách sáng
suốt, làm với chánh niệm, luôn luôn giác tỉnh. Khi nhìn thấy rõ
ràng thì ta sẽ không cần nhẫn nại chịu đựng hay cố gắng tự cưỡng
ép mình. Ta cảm nghe khó khăn nặng
nhọc vì không nhận thức điểm nầy. Trạng thái thanh bình an
lạc khởi sanh từ những việc làm với toàn thể thân và tâm mà
ta đã hoàn tất viên mãn.
Bất luận gì còn bỏ sót lại chưa thực hiện được
sẽ làm cho quý vị cảm nghe bất toại nguyện.
Những điều ấy sẽ trói buộc quý vị
trong lo âu, dầu có đi đâu hay ở đâu. Quý vị muốn hoàn
thành mọi việc, nhưng không thể làm được tất cả.
Thí dụ như thường có những vị thương gia đến
đây viếng Sư. Họ nói, "để
chúng tôi trang trải nợ nần và sắp xếp xong chuyện nhà đâu
ra đó rồi sẽ đến xin xuất gia với Sư".
Họ nói vậy, nhưng mọi việc sẽ được hoàn tất
chăng? Họ có thể sắp xếp việc nhà
đâu đó xong xuôi chăng? Ðó là
những việc không bao giờ chấm dứt. Họ
chỉ vay món nợ nầy để trả món nợ kia.
Họ nghĩ rằng nếu rảnh rang nợ nần sẽ an vui
hạnh phúc, nhưng họ không bao giờ dứt nợ. Ðó là đường
lối giả dối của thế gian, nó phỉnh gạt lừa đảo ta -- chúng ta đi
quanh quẩn vòng vòng mà không bao giờ nhận thức mối hiểm
hoạ.
Liên Tục Thực Hành
Trong pháp hành chúng ta chỉ nhìn vào tâm. Bất
cứ lúc nào mà công trình thực hành bắt đầu trì chậm, ta nhận thấy
liền và tinh tấn củng cố, làm cho nó trở nên vững chắc trở lại.
Không bao lâu sau ta sẽ thực hành điều hoà, tốt đẹp như trước.
Thông thường đó là cách thức
mà chúng ta bị lôi kéo quanh quẩn. Nhưng người có tâm niệm chân
chánh sẽ nắm vững pháp hành của mình và luôn luôn kéo tâm trở về
đề mục tu tập và tự mình phát triển.
Người mà tâm niệm còn non nớt chỉ để
cho tất cả tan vỡ, tâm phóng đi đầu nầy đầu kia và trở đi trở lại.
Người ấy không dũng mãnh bám sát và vững chắc an trú trong pháp
hành, mà luôn luôn bị lòng tham dục trần tục lôi cuốn --
khi kéo theo chiều nầy, lúc đẩy tới hướng nọ. Họ chỉ sống
theo bẩm tánh ham muốn bất thường và lòng khao khát chạy theo
những sự vật trong thế gian của họ, không bao giờ chấm dứt vòng
quanh triền miên tiếp diễn.
Ðến đây xuất gia không phải là điều dễ làm.
Quý Sư đã phải nhất quyết lập
tâm vững chắc. Hãy đặt trọn niềm tin nơi pháp hành nầy. Hãy có đủ
đức tin để tiếp tục thực hành cho đến chừng nào chán nản cả
hai, ưa thích và ghét bỏ, và thấy sự vật đúng theo Chân Lý. Thông
thường ta chỉ bất mãn với những gì mình ghét. Ðiều ưa thích, ta sẽ
không sẵn sàng buông bỏ, khước từ. Quý Sư phải biết nhàm chán cả
hai, những gì mình ghét bỏ và những gì mình ưa thích.
Phải biết buông bỏ đau khổ cũng như
không bám níu vào hạnh phúc.
Quý Sư không thấy rằng chính
đó là tinh chất chánh yếu, là nòng cốt của Giáo Pháp! Giáo
Huấn của Ðức Phật quả thật là sâu sắc và tinh vi tế nhị, không dễ
gì lãnh hội. Nếu trí tuệ thật sự chưa
phát sanh ắt không thể thấy được. Quý Sư không nhìn tới và
quý Sư không nhìn lui. Khi chứng nghiệm hạnh phúc, quý Sư nghĩ
rằng chỉ có hạnh phúc. Khi bị đau khổ,
quý Sư nghĩ rằng chỉ có đau khổ. Quý Sư không thấy rằng khi
có lớn là có nhỏ. Mỗi khi có nhỏ tức có lớn. Quý Sư không nhìn sự
vật như vậy mà chỉ thấy có một bề, chỉ nhìn một cách phiến diện,
và do vậy không bao giờ chấm dứt. Mỗi việc gì đều có hai mặt, ta
phải thấy cả hai. Chừng ấy, khi hạnh
phúc đến, ta không bị lạc lối;
khi đau khổ phát sanh ta không bị bơ vơ, bởi vì ta biết
rằng hạnh phúc và đau khổ tương quan lẫn nhau.
Cùng thế ấy, vật thực hữu ích cho tất cả chúng
sanh vì nó bảo trì cơ thể. Nhưng trong thực tế, vật thực cũng có
thể là một nguyên nhân gây tổn hại, như một món ăn làm cho ta đau
bụng. Thấy điểm lợi ích của vật gì,
ta phải nhận thức những bất lợi của nó, và trái lại. Khi cảm nghe
sân hận và bất mãn khởi phát ta nên niệm tâm Từ, và nên hiểu biết.
Làm như vậy tâm ta sẽ trở nên quân bình và sẽ ổn định vững vàng.
Lá Cờ Rỗng Không
Có lần Sư đọc một quyển sách về Thiền Tông.
Quý Sư biết rằng trong pháp hành của tông phái nầy, vị Thiền Sư
không giảng giải dông dài. Thí dụ như trong thời thiền tọa mà một
thiền sinh ngủ gục, vị Thầy cầm thiền trượng trong tay đi ngang
qua và "Quắc!", cây trượng đập ngay vào lưng.
Người thiền sinh lầm lỗi bị đập liền
cảm tạ Thầy để bày tỏ lòng tri ân sâu xa của mình. Trong
pháp hành thiền nầy thiền sinh được dạy phải biết ơn tất cả những
gì tạo cho mình những cảm giác khả dĩ là cơ hội để phát triển.
Ngày kia một nhóm tỳ khưu tụ hội trong giảng
đường. Ngoài sân chùa một lá cờ bay phất phới trước gió, làm đầu
đề bàn thảo giữa hai nhà sư: Vì sao lá cờ thật sự bay phất
phơ trong gió. Một thầy cho rằng vì gió. Thầy kia cãi lại, nói là
vì cờ. Hai thầy tranh luận, cố bênh vực quan kiến hẹp hòi của mình
và không thể đồng ý với nhau. Cứ thế họ có thể bàn cãi đến chết.
Nhưng vị Thiền Sư can thiệp và dạy:
"Cả hai chúng con đều sai.
Lối hiểu biết đúng là không có
cờ, và không có gió".
Ðó là pháp hành. Ta thực hành không phải để
được bất cứ gì, không phải để có cờ, và không phải
để có gió. Nếu có một lá cờ ắt có một luồng gió, nếu có một
ngọn gió ắt có một lá cờ.
Quý Sư phải quán tưởng và suy niệm tận tường
cho đến khi cái thấy của mình điều
hợp, đúng theo Chân Lý. Quán suy cặn kẽ sẽ thấy rằng không
có gì còn lại. Nó là rỗng không -- hư vô. Rỗng không, không có cờ.
Rỗng không, không có gió. Trong Hư Vô to lớn không có cờ và không
có gió. Không sanh, không già, không bệnh, không chết. Sự hiểu
biết có tính chất quy ước của chúng ta về lá cờ và ngọn gió chỉ là
khái niệm. Trong thực tế không có gì. Thế thôi! Không có gì khác
hơn là nhãn hiệu rỗng không.
Nếu thực hành theo đường
lối nầy chúng ta sẽ đạt đến mức độ có thể thấy trọn vẹn toàn
bộ, và tất cả những vấn đề khó khăn
của chúng ta sẽ chấm dứt. Trong cái Hư Vô to lớn ấy Thần
Chết không bao giờ tìm thấy ta; không có gì để lão, bệnh, tử, bám
đeo dính theo. Khi chúng ta thấy và hiểu biết điều hòa, hợp đúng
với Chân Lý -- tức có chánh kiến -- thì chỉ còn trạng thái rỗng
không to lớn. Ðây là nơi mà không còn "chúng ta", không còn "chúng
nó", không còn "tự ngã", không có gì hết.
Khu Rừng Giác Quan
Thế gian và đường lối vô cùng tận của thế gian
triền miên diễn tiến. Nếu chúng ta cố tìm hiểu nó, công phu ấy chỉ
đưa ta đến hỗn loạn và rối trí.
Tuy nhiên, nếu ta sáng suốt quán chiếu thế gian một cách rõ ràng
thì trí tuệ thật sự phát sanh. Chính Ðức Phật đã thấu hiểu đường
lối của thế gian. Ngài có khả năng
điều ngự và hướng dẫn rộng lớn vô biên vì kiến thức về trần
thế của Ngài rất dồi dào phong phú. Xuyên qua giai
đoạn chuyển tánh, từ trí thông minh
sáng suốt tại thế có tính cách phàm tục, Ngài đã thấm nhuần,
ăn sâu vào và đạt đến trí tuệ siêu
thế, phi trần tục, và sự biến đổi nầy làm cho Ngài là Vô Thượng Sĩ,
bậc thượng sĩ không ai sánh bằng.
Như vậy, nếu hành trì
đúng theo Giáo Huấn của Ðức Phật, hướng tâm quán chiếu trở
lại vào bên trong chính mình, ta sẽ tiến đạt
đến một mức độ hiểu biết hoàn toàn mới mẻ. Khi ta thấy một
vật, không có vật gì. Khi ta nghe một
âm thanh, không có tiếng động nào. Trong khi hửi ta có thể
nói là không có mùi. Tất cả những giác quan hiển nhiên là có hiện
hữu, nhưng tất cả đều là không, không chứa đựng gì là ổn định. Nó
chỉ là những tri giác, phát sanh rồi hoại diệt, sanh rồi diệt.
Nếu ta thấu hiểu sự vật đúng với thực tại thì
giác quan không có gì là thực chất mà chỉ là những tri giác, đến
rồi đi. Trong thực tế không có "một cái gì". Nếu không có "một
cái gì" tức nhiên không có "chúng ta" và "chúng nó". Nếu không có
"chúng ta" xem như một con người, ắt không có gì "của ta". Ðó là
phương cách để chấm dứt đau khổ.
Không có bất luận ai để thâu nhận sự
khổ thì ai đau khổ?
Khi đau khổ phát sanh, ta bám níu vào trạng
thái đau khổ và do đó, phải thật sự chịu đau khổ. Cùng thế
ấy, khi hạnh phúc phát sanh ta bám níu vào hạnh phúc và
do đó, chứng nghiệm lạc thú.
Bám níu vào những cảm giác như vậy làm khơi dậy khái niệm về "một
cái ta", về "tự ngã" và những tư tưởng về "chúng ta", "chúng nó"
liên tục phát hiện. Ðây là đầu dây
mối nhợ cho tất cả, bắt đầu mang ta đi trong một vòng lẩn
quẩn vô cùng tận.
Do vậy, chúng ta đến đây hà nh thiền và
sống điều hòa, hợp theo Giáo Pháp. Chúng ta ly gia cắt ái, xa lìa
nhà cửa để sống giữa rừng, tâm đượm
nhuần trạng thái thanh bình.
Chúng ta ra đi để sống an lạc với chúng ta chớ không phải vì
sợ sệt, cũng không phải là đào tẩu. Tuy nhiên, có người vào rừng
sống rồi lại bám níu vào cảnh rừng núi, đâm ra luyến ái cuộc sống
trong rừng; giống như người quen sống ở thành thị bám níu vào cuộc
sống đô thị. Họ lạc lối trong rừng và họ lạc lối trong thành phố.
Ðức Phật ca ngợi cuộc sống giữa rừng sâu bởi vì
trạng thái đơn độc của thân và
tâm thích hợp thuận lợi cho pháp hành nhằm giải thoát. Nhưng Ngài
không muốn cho ta phải tùy thuộc vào lối sống trong rừng hay phải
dính mắc, kẹt cứng trong trạng thái vắng lặng thanh bình.
Chúng ta đến đây thực hành để khai
triển trí tuệ. Nơi đây, giữa
rừng sâu, ta có thể gieo trồng và vun quén đắp bồi hột giống trí
tuệ.
Sống trong cảnh hỗn loạn và phiền nhiễu, những
hột giống ấy khó mà sanh sôi nảy nở, nhưng một khi
đã học làm quen với lối sống trong rừng ta có thể trở lại
sống an vui với thành phố, cùng với tất cả những khuấy động
của chốn phồn hoa đô thị. Học sống trong rừng có nghĩa là
khơi động, phát triển, làm cho trí tuệ tăng trưởng. Trí tuệ ấy, ta
có thể áp dụng vào bất cứ nơi nào.
Khi giác quan của chúng ta bị khuấy động ta bị
kích thích, bồn chồn, và giác quan trở thành kẻ thù nghịch.
Nó thù nghịch với ta bởi vì chúng ta còn điên cuồng.
Chúng ta không có trí tuệ để đối phó
với nó. Ðúng ra nó là thầy của ta, nhưng vì ta còn si mê
nên không thấy như vậy. Ta quen sống trong thành phố và không bao
giờ nghĩ rằng giác quan của mình có thể dạy mình. Ngày nào mà trí
tuệ chưa thật sự phát sanh chúng ta vẫn còn thấy giác quan và
những đối tượng của nó (tức lục căn
và lục trần) là kẻ thù. Một
khi trí tuệ phát hiện, lục căn và trần cảnh không còn là
thù nghịch nữa mà trở thành con đường
chính, đưa ta vào tuệ minh sát và Chánh Kiến.
Một thí dụ hiển hiện là mấy con gà rừng ở quanh
đây. Tất cả quý vị đều biết rằng gà
rừng rất sợ người ta. Vậy mà từ ngày Sư về đây, ở trong rừng nầy
Sư có thể dạy chúng nó học và Sư cũng học của chúng nữa.
Lần nọ Sư rải lúa cho chúng nó ăn.
Thoạt tiên chúng nó rất nhút nhát và không dám đến gần mấy hột lúa.
Tuy nhiên, sau một thời gian, chúng
nó quen đến tìm ăn và còn trông chờ Sư cho ăn là khác. Quý
Sư thấy không? Có một vài điều ở đây
mà ta có thể học hỏi. Lúc ban
đầu mấy con gà rừng e sợ vì nhận thấy có sự hiểm nguy trong
những hột lúa, chúng xem lúa là kẻ thù. Trong thực tế, không có
hiểm họa trong lúa, nhưng chúng nó không biết rằng lúa chỉ là vật
thực, và chúng nó sợ. Khi cuối cùng, tự mình thấy rằng không có gì
phải sợ, chúng có thể đến ăn mà
không có gì hại.
Những con gà rừng học hỏi như vậy một cách tự
nhiên. Sống ở đây, trong khu
rừng này, ta cũng học hỏi cùng một thế ấy. Lúc ban sơ, ta nghĩ
rằng giác quan của ta là vấn đề tạo
khó khăn, và bởi vì không biết xử dụng nó một cách thích
nghi nên ta gặp rất nhiều phiền toái. Tuy nhiên, nhờ kinh nghiệm
của pháp hành, ta học được lối nhìn
chúng nó thích ứng với Chân Lý. Chúng ta học cách xử dụng giác
quan giống như mấy con gà xử dụng hột lúa.
Chừng đó giác quan không còn
là thù nghịch với ta nữa, và bao nhiêu vấn đề
khó khăn đều tan biến.
Giờ phút nào mà chúng ta còn suy tư, quán xét,
và hiểu biết lầm lạc thì những sự vật ấy còn là thù nghịch với ta.
Nhưng khi ta bắt đầu quán xét chân
chánh thì những gì kinh nghiệm sẽ đưa
ta đến trí tuệ và hiểu biết chân chánh -- giống như mấy con
gà cuối cùng hiểu biết chân chánh.
Theo đường lối nầy ta có thể nói rằng mấy con gà thực hành
"thiền minh sát". Chúng nó hiểu biết
thích ứng với Chân Lý, đó là tuệ minh sát của chúng.
Trong pháp hành nầy lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý, là những công cụ mà nếu xử dụng thích nghi, sẽ soi
sáng Giáo Pháp cho chúng ta. Ðó là điều mà tất cả những ai hành
thiền phải quán niệm. Nếu không nhận thức rõ ràng, chúng ta vẫn
còn sống mãi trong tình trạng mâu thuẫn và xung đột.
Như vậy, đã sống trong cảnh tĩnh mịch
của rừng thiêng chúng ta nên tiếp tục phát triển những cảm giác vi
tế và chuẩn bị dọn đất nhằm canh tác trí tuệ.
Quý Sư đừng nghĩ rằng mình đã
thâu hoạch một vài trạng thái tâm thanh bình an lạc giữa khu rừng
vắng, và như thế là đủ. Chớ nên yên trí ngừng nghỉ chỉ vì đã hưởng
được bao nhiêu đó! Quý Sư hãy ghi nhớ nằm lòng rằng chúng ta đến
đây để gieo trồng và vun quén hột giống trí tuệ.
Khi trí tuệ chín mùi và chúng ta bắt đầu hiểu
biết thích ứng với Chân Lý, ta sẽ không còn bị lôi kéo lên xuống
nữa. Thông thường, khi vui ta xử sự khác và khi buồn chúng ta có
một lối cư xử khác. Ưa thích, chúng ta phấn khởi, lên tinh thần.
Ghét bỏ, chúng ta bực dọc, buồn phiền, giảm suy ý chí. Theo cung
cách ấy chúng ta vẫn còn xung đột với kẻ thù.
Khi sự vật không còn đối nghịch với ta nó sẽ
trở thành ổn định và quân bình. Sẽ không còn lên xuống hoặc thấp
cao. Chúng ta thấu triệt những sự vật của thế gian và hiểu biết
rằng đường lối của chúng là vậy. Nó chỉ là thế gian pháp (atthalokadhamma,
tám pháp thế gian: được và
thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và
đau khổ).
"Thế gian pháp" biến thành "Con Ðường" -- tức
Bát Chánh Ðạo. "Thế gian pháp" có tám. "Con Ðường" có tám. Nơi nào
có "thế gian pháp" cũng có "Con Ðường". Khi chúng ta sống một cách
sáng suốt rõ ràng tất cả những kinh nghiệm tại thế của ta trở
thành pháp hành "Bát Chánh Ðạo". Nếu không sáng suốt rõ ràng, "thế
gian pháp" sẽ lấn áp trội lên và chúng ta tách rời, lìa xa "Con
Ðường". Khi Chánh Kiến phát sanh,
trạng thái giải thoát ra khỏi mọi đau khổ hiện khởi ngay tại đây,
trước mắt ta. Quý Sư sẽ không tìm được giải thoát bằng cách
chạy rong chạy rỗi nhìn quanh nơi nào khác!
Như vậy không nên gấp rút và quá sức cố gắng
hoặc thực hành hấp tấp. Hãy để cho công phu hành thiền của mình
diễn tiến thong thả, nhẹ nhàng, và đều
đặn tiến dần từ bước một. Còn về trạng thái an lạc, nếu cảm
nghe an lạc, hãy chấp nhận như vậy. Ðó là bản chất của tâm. Phải
tìm pháp hành của ta và kiên trì giữ vững.
Có thể trí tuệ không phát sanh! Trước kia Sư
thường suy tư về pháp hành, và khi trí tuệ không phát sanh Sư cố
ép cho nó đến. Nhưng làm như vậy không có kết quả, không có gì
thay đổi. Lúc ấy, sau khi thận trọng suy xét, Sư nhận thức rằng
không thể quán chiếu cái gì mà chính mình không có. Vậy thì tốt
hơn phải làm thế nào? Tốt hơn hết, chỉ thản nhiên chăm chú hành
thiền, hành thiền với tâm xả. Nếu không có gì làm cho ta lo âu thì
không có gì để ta cứu chữa. Nếu không
có vấn đề thì không có gì để ta cố gắng giải quyết.
Khi có vấn đề, đó chính là lúc
mà ta phải giải quyết, ngay vào lúc ấy!
Không cần phải đi đâu tì m kiếm cái gì
đặc biệt, chỉ sống bình thường, nhưng hiểu biết tâm ta ở đâu! Sống
với Chánh Niệm và hiểu biết rõ ràng. Hãy để cho trí tuệ hướng dẫn
ta, không nên dể duôi chểnh mảng, hờ hững lăn trôi theo những cơn
buồn vui tùy hứng. Hãy chuyên cần và giác tỉnh!
Nếu không có gì. Tốt! Khi có gì xảy diễn, hãy
quán chiếu và suy niệm.
Nhập Vào Trung Tâm
Ta thử quan sát con nhện.
Nhện giăng tơ, làm thành một
màng lưới, rồi ngồi lại ở giữa, im lìm, bất động.
Sau đó, một con ruồi bay đến, đáp lên,
và mắc vào lưới nhện. Vừa khi ruồi
đụng đến và làm rung chuyển lưới thì "phụp!" nhện phóng
nhanh tới và quấn chặt. Ruồi bị giữ
lại đó. Nhện quay về trung tâm màng lưới, thâu mình vào, im
lặng. Quan sát một con nhện như vậy có thể khai triển trí tuệ. Hệ
thống giác quan của ta có cái tâm ở giữa và mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý bao quanh. Khi một giác
quan bị khơi động, thí dụ như có hình thể tiếp xúc với mắt,
thì nó rung động và chạy đến tâm. Tâm là cái gì hay biết -- ở đây
là biết hình thể. Chỉ bấy nhiêu cũng đủ làm cho trí tuệ phát sanh.
Giản dị như vậy!
Giống như con nhện trên màng lưới của nó, ta
phải giữ mình, thu thúc lục căn. Vừa khi nhện hay biết có ruồi
chạm vào lưới, tức thì nó nhanh chóng phóng tới chụp và quấn chặt,
rồi quay về trung tâm trở lại. Không có gì khác biệt với tâm ta. "Nhập
vào trung tâm" có nghĩa là sống với Chánh Niệm, ghi nhận và hay
biết rõ ràng, luôn luôn giác tỉnh, làm tất cả mọi việc một cách
thỏa đáng và chính xác -- đó là trung tâm của chúng ta. Thật sự
không phải làm gì nhiều, chỉ thận trọng sống như vậy. Nhưng nói
thế không có nghĩa là chúng ta sống buông lung, không chuyên cần,
nghĩ rằng, "không cần thiền tọa hoặc thiền hành", hay quên đi, gác
qua một bên pháp hành. Chúng ta không thể bất cẩn.
Phải thận trọng, luôn luôn giác tỉnh,
y như con nhện đứng rình để chụp ruồi làm vật thực.
Ðó là tất cả những gì ta cần phải biết: ngồi
lại và suy niệm về con nhện. Chỉ làm thế thôi, trí tuệ có thể tự
nhiên phát hiện. Tâm ta giống như con nhện. Những cảm tưởng giống
như ruồi, muỗi và những loại côn trùng khác nhau. Tất cả chỉ có
bấy nhiêu! Giác quan bao trùm và luôn luôn khơi động tâm.
Khi một giác quan tiếp xúc với đối
tượng, nó lập tức chạy đến tâm. Tâm quán chiếu, suy xét tận
tường rồi nhập trở lại vào trung tâm. Ta sống an trú như vậy --
giác tỉnh, hành động chính xác và luôn luôn giữ chánh niệm, hay
biết với trí tuệ. Chỉ bấy nhiêu, và pháp hành của ta hoàn thành
viên mãn.
Ðiểm nầy rất quan trọng. Chúng ta không nhất
thiết phải ngồi thiền suốt ngày suốt đêm, hay là phải đi kinh hành
suốt đêm suốt ngày. Nếu quan niệm pháp hành là vậy ta
thật sự tạo khó khăn cho mình.
Phải làm điều nào mà mình có thể làm được, lượng sức dẻo dai và
năng lực của mình và xử dụng khả năng
của cơ thể trong mức độ thích nghi.
Ðiều rất quan trọng là hiểu biết cái tâm và các
giác quan. Thấu hiểu nó đến như thế
nào và thấu hiểu nó đi như thế nào. Khởi sanh như thế nào
và hoại diệt như thế nào. Hãy thấu hiểu tận tường. Trong ngôn ngữ
của Giáo Pháp ta có thể nói rằng giống y như lưới nhện bao bắt
ruồi muỗi và những loại côn trùng khác nhau, tâm cột trói giác
quan bằng Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Rồi
những giác quan ấy đi về đâu?
Ta giữ nó lại để làm vật thực, tồn trữ nó vào kho để làm
chất liệu dinh dưỡng -- chất liệu để quán niệm nhằm nuôi dưỡng trí
tuệ. Ðó là chất dinh dưỡng đối với người hay biết và thấu hiểu.
Biết rằng những sự vật ấy là vô thường, dính
liền với đau khổ và không có gì gọi là "ta" thì phải là điên cuồng
ta mới chạy theo chúng! Nếu không nhận thức rõ ràng như vậy ắt ta
phải đau khổ. Khi đã quan sát
tận tường và thấy rằng những sự vật ấy quả thật là vô thường thì
dầu nó có vẻ như đáng cho ta chạy
theo, thật sự nó không đáng. Tại sao ta muốn làm gì trong
khi bản chất của nó là đau đớn và
sầu khổ? Nó không phải của ta, không có thực chất, không có gì
thuộc về của ta. Như vậy tại sao ta chạy theo tìm nó làm gì?
Tất cả mọi vấn đề khó khăn đều chấm
dứt nơi đây. Còn đâu khác để
ta chấm dứt nó?
Chỉ nhìn rõ con nhện và quay cái nhìn vào bên
trong mình, hướng cái nhìn trở lại vào trong. Ta sẽ thấy rằng hai
hình ảnh đều giống nhau y hệt. Khi cái tâm
đã thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã thì nó buông bỏ tất cả và tự
phóng thích. Nó không còn bám níu vào đau khổ hay hạnh phúc. Ðó là
chất liệu dinh dưỡng cho tâm linh người có pháp hành, người thật
sự đã tự rèn luyện. Tất cả chỉ có bấy nhiêu, thật giản dị! Ta
không cần chạy tìm nơi nào khác. Như vậy bất luận việc gì mà ta
đang làm, đặt tâm ở ngay tại đó.
Không cần phải rầm rộ và phiền nhiễu. Làm như vậy đà tinh tấn và
năng lực của pháp hành sẽ tiếp tục tăng cường và trở nên thuần
thục.
Tẩu Thoát
Năng lực của pháp hành nầy đưa ta ra
khỏi vòng quanh sanh và tử. Ta mãi còn thênh thang trong vòng lẩn
quẩn nầy vì vẫn còn ham muốn và khát khao. Chúng ta không còn lầm
lạc trong những hành động bất thiện
hay vi phạm giới luật, nhưng được như vậy chỉ có nghĩa là
chúng ta sống điều hợp thuận theo Giới Luật của Giáo Pháp:
thí dụ như có người thỉnh chúng ta
tụng kinh để cho tất cả chúng sanh đừng xa lìa những sự vật được
thương yêu quý mến. Quý Sư hãy suy nghĩ lại xem! Quả thật
là trẻ con. Ðó là đường lối của người thế gian, vẫn còn chưa có
thể buông bỏ. Ðó là bản chất tham ái của con người, khát khao ham
muốn những gì khác hơn là cái mà họ có:
họ muốn được trường thọ, họ mong mỏi
sẽ không chết hoặc không bệnh hoạn. Ðó là những gì mà con
người mong mỏi và thèm khát. Rồi khi họ nghe nói rằng bất luận ham
muốn nào mà không được thỏa mãn sẽ gây đau khổ thì họ đuối lý. Họ
có thể nói gì? Không nói gì được, bởi vì đó là Chân Lý.
Khi đề cập đến tham ái ta biết rằng tất cả mọi
người đều có lò ng tham và muốn cho tham vọng của mình được
thỏa mãn. Nhưng không có ai khứng chịu dừng bước, không ai muốn
tẩu thoát. Do đó phải làm cho
pháp hành của chúng ta ngày càng tế nhị. Những ai thực hành một
cách kiên trì, không sai lệch hay chểnh mảng, sống cuộc đời hiền
hòa, thu thúc, và luôn luôn chuyên cần tinh tấn, những vị ấy sẽ
thấu triệt. Bất cứ gì phát sanh, các Ngài luôn luôn vững chắc
không lay chuyển.
-ooOoo-
[05]
Pháp Luyện Tâm
(Dưới đây là thời Pháp do Ngài AJAHN
CHAH thuyết giảng tại chùa Bovornives, Bangkok, vào năm
1977, trước một cử tọa gồm chư Tăng Thái và một nhóm tỳ
khưu người Tây Phương.)
V ào thời của các Ngài Thiền Sư Ajahn Mun
[1] và Ajahn Sao [2], đời sống thật
là giản dị, ít phức tạp hơn ngày nay nhiều. Trong những
ngày xa xưa ấy có rất ít Phật sự phải làm và rất ít nghi lễ để cử
hành. Các Ngài sống giữa rừng sâu, không cố định một nơi nào.
Trong hoàn cảnh tương tợ các Ngài có thể dành trọn vẹn thì giờ của
mình để hành thiền.
Những tiện nghi mà ngày nay ta xem là thông
thường, ai cũng có, vào thời ấy thật là hiếm hoi; đúng ra là không
có tiện nghi gì hết. Các Ngài phải dùng ống tre để làm ly uống
nước và ống nhổ, còn thiện tín cư sĩ thì chẳng có ai tới lui thăm
viếng. Các Ngài không ham muốn, cũng không cầu mong gì
nhiều mà chỉ an phận, vui vẻ với những gì mình đang có. Các Ngài
có thể sống và hành thiền, sống và hành thiền cũng tợ như sống và
thở.
Chư sư thời ấy thiếu thốn mọi điều. Nếu có một
vị lâm bệnh số t rét và đến hỏi xin thuốc, thì vị Thầy Bổn
Sư bảo, "Sư không cần thuốc đâu! Cứ tiếp tục hành thiền đi!" Ngày
nay thì chúng ta có đủ loại thuốc chớ
thuở đó thì không có gì hết. Người bệnh chỉ có rễ cây và
rau cỏ trong rừng. Vì hoàn cảnh đã là vậy, chư Tăng
phải có rất nhiều đức tính nhẫn nại và chịu đựng. Các Ngài
không màng quan tâm đến những chứng bệnh lặt vặt, không phải như
ngày nay, đau một chút gì thì chúng ta vội vã đi
ngay đến bệnh viện.
Ði trì bình (pindapad)
đôi khi các Ngài phải đi xa ba, bốn, hoặc năm cây số. Phải ra đi
thật sớm, lúc trời vừa tửng bưng sáng, và có khi đến mười hay mười
một giờ trưa mới trở về đến nhà. Vậy mà thọ bát cũng không
có gì. Không chừng được một ít xôi, muối và vài trái ớt. Dầu có gì
để ăn với xôi không, điều ấy không thành
vấn đề. Ðời sống tu hành là vậy. Không ai dám than phiền là đói
bụng hay mệt nhọc. Các Ngài không có khuynh hướng than phiền mà
chỉ lo tu học phương cách tự chăm sóc lấy mình. Các Ngài nhẫn nhục
hành thiền và chịu đựng giữa rừng sâu
đầy hiểm họa. Sống lẩn lộn với các Ngài có rất nhiều thú
rừng, đủ loại sài lang hổ báo, và lối sống của vị tu sĩ ẩn dật
thực hành hạnh Ðầu Ðà (Dhutanga) [*] thật là khổ nhọc, cho cả thân
lẩn tâm. Quả thật vậy, hạnh nhẫn nhục và sức chịu đựng của chư Sư
thời bấy giờ lên đến mức độ rất cao,
bởi vì hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc các Ngài phải như vậy.
[*] Hạnh Ðầu Ðà (Dhutanga), theo nghĩa trắng
của danh từ, là "phương tiện khuấy động.
Ở đây là khuấy động các ô nhiễm. Dhutanga là phương tiện để
thanh lọc, làm cho trở nên trong sạch. Ðó là những giới
luật nghiêm khắc mà Ðức Phật khuyên chư Tăng nên hành trì để
trau giồi những hạnh nhẫn nhục, tri túc, buông bỏ, tinh tấn, an
phận với những gì mình đang có v.v.. Vị tỳ khưu có thể hành một
hoặc nhiều giới của hạnh Ðầu Ðà trong một thời gian dài hay ngắn,
tùy theo lời nguyện. Sách Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Ðạo lược kê
13 giới khác nhau của hạnh Ðầu Ðà.
Ðến nay thì khác hẳn. Hoàn cảnh hiện tại đưa
đẩy và lôi cuốn chúng ta theo chiều hướng đối nghịch. Thời xưa
người ta đi bộ, kế đó đi xe bò, rồi đến
đi xe hơi. Rồi ước vọng và lòng khao khát ham muốn tăng
trưởng, mãi đến nay nếu xe hơi không có máy lạnh ta cũng không
muốn ngồi trên đó: không thế nào đi
được nếu xe không có máy điều hoà không khí! Hạnh nhẫn nhục
và đức tính chịu đựng đã suy
giảm, yếu dần. Công trình hành thiền bê trễ, và ngày càng bê trễ
hơn, đưa đến tình trạng là
ngày nay người hành thiền chỉ muốn làm theo ý riêng và sở thích
mình. Khi những bậc cao niên nhắc lại những mẫu chuyện thời xưa,
họ nghe như chuyện thần thoại hoang
đàng. Họ chỉ nghe một cách lơ đễnh mà không quan tâm đến. Họ không
hiểu. Nó không đến với họ.
Lắng nghe chính cái tâm của mình quả thật thích
thú kỳ diệu. Cái tâm chưa được rèn luyện nầy không ngừng chạy
quanh chạy quẩn theo những thói quen tật cũ hoang
dại của nó. Nó nhảy nhót một cách điên
cuồng bấn loạn, vì chưa bao giờ được rèn luyện. Vì lẽ ấy ta phải
luyện tâm. Và pháp hành thiền trong Phật Giáo mật thiết liên quan
đến tâm. Hãy trau giồi tâm, hãy phát triển chính cái tâm của ta.
Ðiều nầy rất quan trọng, tối quan trọng. Rèn luyện tâm là công
trình vô cùng thiết yếu. Phật Giáo là tôn giáo của tâm. Chỉ có thế!
Ai thực hành pháp trau giồi tâm là thực hành Phật Giáo.
Tâm của chúng ta sống trong một cái chuồng. Hơn
thế nữa, trong chuồng ấy còn có một con cọp hung tợn. Nếu cái tâm
buông lung của chúng ta mà không tìm ra được những gì cọp muốn thì
con cọp hung dữ ấy sẽ nổi dậy gây rối loạn. Ta phải huấn luyện,
khép nó vào kỷ luật bằng pháp hành thiền, bằng tâm định (samàdhi).
Làm như vậy gọi là "luyện tâm". Tiên khởi hơn hết, nền tảng của
pháp hành là kiên cố giới luật (sìla). Sìla, giới
luật, là luyện thân và luyện khẩu. Từ đó
phát sanh xung đột và rối loạn. Khi chống đối, không tự cho phép
mình làm điều mình muốn ắt có xung đột. Con cọp hung dữ nổi
dậy.
Ăn b ớt lại! Ngủ bớt lại! Nói bớt lại!
Bất luận gì là thói quen của cuộc sống trần tục, hãy giảm bớt lại.
Hãy đi ngược lại sức lôi cuốn của nó. Chớ nên chỉ làm những điều
mà ta ưa thích. Chớ nên buông lung, để cho dòng tư tưởng tự nhiên
trôi chảy. Hãy tự kềm hảm, chấm dứt thói quen quỳ lụy phục tùng, để
cho nó sai khiến. Ta phải luôn luôn đi ngược dòng lôi cuốn
của vô minh. Ðó là "giới luật", kỷ cương. Khi ta khép cái tâm vào
khuôn khổ kỷ cương, ắt nó trở nên bất mãn và bắt đầu
chiến đấu chống lại. Nó bị hạn chế và áp bức. Khi bị ngăn
chận, không được tự do làm theo ý muốn thì cái tâm bắt đầu
phóng đi và chiến đấu chống lại. Chừng ấy Dukkha [*], đau khổ,
phát sanh, nổi lên hiển hiện cho ta thấy.
[*] Dukkha, đau khổ, hà m xúc những
trạng thái tâm bất toại nguyện. Bất mãn, không toàn hảo, không
an toàn, của tất cả những pháp hữu lậu. Pháp hữu lậu là những gì
phát sanh và tồn tại do những yếu tố khác tạo điều kiện. Trong
thực tế tất cả những sự vật trên thế gian đều là pháp hữu lậu.
Bởi vì tất cả những gì làm nguyên nhân và tạo duyên (điều
kiện) cho những hiện tượng ấy phát sanh đều phải luôn luôn biến
đổi nên chính những hiện tượng ấy cũng luôn luôn biến đổi và do
đó, là nhân sanh khổ, dukkha. Dukkha, đau khổ, bao hàm
tất cả những hình thức bất toại nguyện, từ sự đau
đớn thô sơ của cơ thể vật chất,
những khổ đau của tuổi già, của bệnh tật và chết chóc,
đến những thọ cảm khó chịu, tế nhị hơn như phải xa lìa người
thân kẻ yêu, hay phải kết hợp với người không ưa thích, luôn đến
những trạng thái tâm vi tế như dã dượi hôn trầm, phóng dật lo âu
v.v... Ðây là một trong những khái niệm thường được hiểu lầm hơn
hết và cũng là quan trọng hơn hết để phát triển tâm.
Dukkha, trạng
thái đau khổ, là đế (chân lý) đầu tiên trong Tứ Diệu Ðế (bốn
chân lý thâm sâu huyền diệu). Phần đông người
ta muốn tránh xa, thoát ra khỏi đau khổ. Họ không muốn loại khổ nào
hết. Ðúng thật ra, chính đau khổ đem
trí tuệ đến cho ta. Chính nó làm cho ta quán tưởng
dukkha. Hạnh phúc, sukha, làm cho ta nhắm mắt, bịt tai
và không bao giờ cho phép ta phát triển hạnh nhẫn nhục. Tiện nghi
và hạnh phúc làm cho ta bất cẩn. Vì không nhẫn nhục và không
chuyên cần nên ta không thể thấy được Chân Lý Thâm Diệu Cao Thượng
Về Sự Khổ (Khổ Ðế). Do vậy ta phải khơi dậy trạng thái đau
khổ để tận diệt đau khổ của ta. Trước tiên phải hiểu biết
dukkha là gì rồi mới có thể biết làm thế nào hành thiền.
Trong giai đoạn sơ khởi phải hà nh như
thế nầy. Có thể ta không hiểu biết những gì đang
xảy ra hay điểm nào là quan trọng, nhưng khi vị Thiền Sư
bảo làm điều gì ta phải làm đúng lời dạy.
Bằng cách đó ta trau giồi hạnh nhẫn nhục và đức tính kiên
trì chịu đựng. Bất luận điều gì xảy
đến, ta vẫn kiên trì chịu đựng, vì đường lối tu học là vậy.
Thí dụ như khi bắt đầu hành pháp định tâm ( samàdhi)
ta muốn đạt đến trạng thái vắng lặng và an tĩnh,
nhưng mặc dầu cố gắng, ta không thâu đạt kết quả nào. Không
có kết quả bởi vì ta chưa bao giờ hành thiền như vậy. Tâm ta nói,
"ta sẽ ngồi đây cho đến khi nào
thành đạt trạng thái vắng lặng".
Nhưng vắng lặng không phát sanh. Ta đâm ra bất mãn, đau khổ. Và
khi cảm nghe đau khổ ta đứng dậy, bỏ
đi! Hành thiền như thế không thể gọi là "phát triển tâm",
phải gọi là "đào tẩu".
Thay vì dể duôi tự buông trôi theo những cảm
xúc buồn vui tùy hứng của mình, ta hãy tự uốn nắn, tu tập đúng
theo Giáo Pháp (Dhamma) của Ðức Phật. Dầu lười biếng hay
siêng năng ta cũng vẫn tiếp tục hành thiền. Có phải chăng
đó là đường lối tốt đẹp hơn? Lối sống kia, lối sống buông tay tự
lăn trôi theo những cơn hứng thú, lúc siêng lúc lười tùy
hoàn cảnh, sẽ không bao giờ đưa đến
Giáo Pháp. Nếu quyết tâm thực hành Giáo Pháp thì dầu ở
trong tâm trạng nào ta vẫn một mực tinh tấn hành thiền, một mực
kiên trì chuyên cần. Dễ dãi tự nuông chiều để
cuộc sống đẩy đưa tùy hứng không phải là con đường của Ðức
Phật. Nếu khăng khăng cố giữ quan
kiến riêng của mình về Giáo Pháp ta sẽ không bao giờ nhìn
thấy rõ ràng điều nào là đúng, điều
nào sai. Ta không hiểu biết tâm mình. Ta không tự hiểu biết
chính mình.
Vậy, hành thiền theo lời dạy của chính mình là
đường lối chậm trễ nhất. Hành theo Giáo Pháp là con đường trực
tiếp.
Lười biếng, ta hành; siêng năng, ta hành. Ta
hay biết thời gian và nơi chốn mình đang thực hành. Ðó gọi là "phát
triển tâm".
Nếu dễ dãi chiều theo quan kiến riêng của mình
và cố gắng thực hành đúng theo đó ta
sẽ bắt đầu suy tư và hoài nghi
nhiều điều. Ta tự nghĩ, "Tôi không được có nhiều phước báu. Tôi
không được may mắn. Tôi đã cố gắng hành thiền trong nhiều
năm qua mà vẫn không thành đạt Ðạo Quả nào. Tôi vẫn chưa thấy được
Giáo Pháp". Hành thiền với thái độ tương tợ không thể gọi là "phát
triển tâm". Gọi đó là "phát triển thảm bại".
Trong giờ phút nầy, nếu ta còn ở trong tình
trạng như vậy, hành thiền mà không biết, không thấy, không tự mình
thay đổi, là vì cho đến nay ta thực hành theo một đường
lối sai lầm. Ta không theo đúng pháp hành mà Ðức Thế Tôn
giáo truyền. Ðức Phật dạy: "Nầy Ànanda, hãy hành thật nhiều! Luôn
luôn chuyên cần phát triển pháp hành! Chừng đó tất cả mọi hoài
nghi, tất cả những gì còn mơ hồ, sẽ tan biến". Những hoài nghi và
mơ hồ ấy không bao giờ biến tan vì chúng ta suy tư, vì chúng ta
lập luận, vì chúng ta biện luận, hay vì chúng ta tranh luận. Những
hoài nghi ấy cũng không chấm dứt vì ta không làm gì hết. Tất cả
mọi ô nhiễm sẽ tan biến vì ta phát triển tâm, vì ta thực hành đúng
theo Giáo Pháp.
Ðường lối phát triển tâm mà Ðức Phật giáo
truyền có chiều hướng nghịch hẳn với con đường của thế gian, bởi
vì giáo lý nầy phát nguyên từ một cái tâm hoàn toàn trong sạch.
Tâm thanh tịnh không bám níu ô nhiễm là con đường của Ðức Phật và
chư Thánh đệ tử của Ngài.
Muốn thực hành Giáo Pháp ta phải uốn nắn, tự
rèn luyện để cái tâm của mình thích hợp với Giáo Pháp. Không nên
bóp méo Giáo Pháp để Giáo Pháp thích hợp với mình. Làm vậy ắt đau
khổ phát sanh.
Không ai tránh khỏi đau khổ. Vậy, khi ta bắt
đầu hành thiền đau khổ đã có sẵn ngay
tại đây rồi.
Bổn phận người hành thiền là phải giữ chánh
niệm, trụ tâm và an phận. Những pháp tu tập nầy giúp ta dừng lại.
Tâm của người chưa từng bao giờ hành thiền có những thói quen
buông lung. Công phu tu tập nầy chận đứng những thói quen ấy. Tại
sao ta phải chịu khó như vậy? Vì nếu không chịu khó rèn luyện, ắt
tâm mãi còn ở trong tình trạng hoang dại, mãi chạy theo những
đường lối thiên nhiên. Ta có thể rèn luyện cái bản chất thiên
nhiên ấy và xử dụng tâm một cách có lợi ích. Cũng như một cội cây.
Nếu để ở trong trạng thái thiên
nhiên với cành lá sum sê, ắt không bao giờ dựng lên được một ngôi
nhà. Cây ở trong tình trạng ấy, ta không thể cưa ra thành ván để
cất nhà. Tuy nhiên, nếu có người tiều phu rong lá, chặt cành, làm
cho cây trở nên suôn sẻ, người thợ
cưa sả cây ra, người thợ mộc gọt đẽo thành ván, thành cột,
kèo, rui, mè v.v... không bao lâu ta có thể dùng đó mà dựng lên
ngôi nhà.
Hành thiền và phát triển tâm cũng dường thế ấy.
Ta bắt đầu với cái tâm chưa được rèn
luyện -- giống như cội cây sum sê cành lá trong trạng thái thiên
nhiên giữa rừng -- và rèn luyện cái tâm thiên nhiên ấy, làm cho nó
ngày càng tế nhị, càng bén nhạy và sâu sắc hơn. Tất cả đều ở trong
trạng thái thiên nhiên. Khi thấu hiểu trạng thái thiên nhiên như
thế nào ta có thể đổi thay, có thể tự tách rời ra khỏi nó và buông
bỏ, để nó đi qua. Chừng đó không còn
đau khổ nữa.
Bản chất của tâm là mỗi khi nó dính mắc và bám
níu thì có chao động và rối loạn. Nó có thể phóng đi
đầu nầy rồi nhảy đi đầu kia. Trong khi quan sát ta nhìn
thấy trạng thái chao động và
có thể nghĩ rằng không làm sao rèn luyện được
tâm. Nghĩ như vậy ta đâm ra chán nản, buồn phiền, đau khổ. Ta
không thấu hiểu rằng tâm là vậy. Mặc dầu ta đang hành thiền,
cố gắng tìm trạng thái an tĩnh, luôn luôn có những tư tưởng và những
cảm thọ di chuyển, chao động lăng xăng. Nó là vậy.
Khi quán tưởng nhiều về bản chất của tâm ta sẽ
thấu hiểu rằng tâm là vậy, không thế nào khác. Ta sẽ thấu hiểu
rằng sinh hoạt của tâm chỉ là vậy. Bản chất của nó là vậy. Nếu
thấy được rõ ràng như vậy ta có thể tự tách rời ra khỏi những tư
tưởng và thọ cảm. Trong khi luôn luôn tự nhủ rằng, "nó là vậy, nó
chỉ là vậy" ta không cần phải thêm gì khác. Khi tâm thật sự hiểu
biết nó sẽ để cho tất cả trôi qua mà không dính mắc. Tư tưởng và
thọ cảm vẫn còn đó. Nhưng chính những tư tưởng và thọ cảm ấy không
còn năng lực lôi kéo hay quyến rũ nữa. Nó là nó, tâm là tâm.
Sự kiện nầy cũng giống như có em bé đù a
nghịch làm cho ta khó chịu, la rầy, hay phát đít em. Ta nên hiểu
rằng bẩm chất của trẻ con là đùa nghịch. Khi đã hiểu như vậy rồi
ta có thể không quan tâm đến và để nó
chơi đùa tự nhiên. Như vậy ta không còn khó chịu nữa. Trạng
thái bực bội ắt chấm dứt. Tại sao trạng thái bực bội chấm dứt? Bởi
vì ta đã chấp nhận bản chất thật sự của sự vật. Ta buông bỏ, không
bám níu, và tâm trở nên an tĩnh. Ta đã có "chánh kiến".
Nếu quan kiến của ta sai lầm thì dầu sống trong
hang đá sâu thẩm tối đen cũng vẫn bị
xáo trộn, mà tung bay lên tận không trung mênh mông cũng
vẫn vị xáo trộn. Tâm chỉ được an lạc
khi có chánh kiến. Chừng đó không còn gì khó khăn
bí ẩn để giải quyết, không còn vấn đề phiền phức.
Ðó là đường lối
chân chánh. Ta tự tách rời để cho tất cả trôi qua mà không
dính mắc. Mỗi khi có cảm giác bám níu phát sanh ta tự tách rời ra
khỏi nó bởi vì đã thấu hiểu rằng chính cảm giác ấy cũng chỉ là vậy,
đến rồi đi, sanh rồi diệt. Nó đến,
không phải để quấy rầy ta. Ta có thể nghĩ như vậy, cho rằng nó đến
để quấy rầy ta, nhưng trong thực tế đó chỉ là bản chất
thiên nhiên của nó -- cũng như đùa nghịch là bản chất thiên nhiên
của trẻ con. Dầu ta có quán xét và suy tư sâu xa hơn nữa thì cũng
vậy. Nó chỉ là vậy. Nếu ta để cho tất cả trôi qua thì hình sắc chỉ
là hình sắc, âm thanh chỉ là âm thanh, mùi chỉ là mùi, vị chỉ là
vị, xúc chạm chỉ là xúc chạm, và tâm chỉ là tâm. Cũng như dầu với
nước. Ta có thể để chung dầu và nước trong một cái lọ, hai
thứ vẫn không hòa lẩn nhau bởi vì bản chất của hai thứ khác nhau.
Dầu và nước khác nhau cũng như người trí tuệ và
người si mê khác nhau. Ðức Phật sống giữa sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp, nhưng đã là bậc A
La Hán, Ngài xây lưng và tự tách rời ra dần dần. Ngài thấu triệt
rằng tâm chỉ là tâm và tư tưởng chỉ là tư tưởng. Ngài không mơ hồ
lầm lẩn và pha trộn lẩn nhau.
Tâm chỉ là tâm. Tư tưởng và thọ cảm chỉ là tư
tưởng và thọ cảm. Thật sự nó là vậy, hãy để cho nó là vậy. Sự vật
như thế nào hãy để cho sự vật đúng là
vậy! Hãy để cho cái gì là cái đó! Sắc chỉ là sắc, thinh chỉ là
thinh, ý là ý. Tại sao ta phải bận tâm bám níu nó? Nếu suy tư và
thọ cảm như vậy ta sẽ buông bỏ và tự tách rời ra. Tư tưởng và thọ
cảm sẽ ở một bên, còn tâm thì ở bên kia. Cũng như dầu và nước --
cả hai thể chất cùng ở trong một lọ nhưng riêng biệt, không hòa
tan lẩn nhau.
Ðức Phật và chư Thánh Tăng
đệ tử của Ngài sống chung với những người thường, những
người phàm. Chẳng những sống chung với các người ấy mà các Ngài
còn giáo dục họ, những người phàm tục tầm thường và si mê ấy, dạy
họ phải làm thế nào để trở nên cao siêu thánh thiện, giác ngộ và
có trí tuệ. Các Ngài có thể làm điều ấy vì các Ngài thông suốt
pháp hành thiền. Các Ngài thấu hiểu rằng đây chỉ là vấn đề luyện
tâm, như Sư vừa giải thích.
Như vậy, chớ nên lo lắng và hoài nghi pháp hành
thiền. Chúng ta ly gia cắt ái để trở thành tu sĩ chớ không phải
rời bỏ cửa nhà để lạc lối trong đám
mây mù si mê ảo kiến. Cũng không phải vì hèn nhát hay sợ
sệt. Chúng ta ra đi để tự rèn luyện,
để làm chủ lấy mình. Hiểu biết như vậy ta có thể noi theo
con đường của Giáo Pháp. Giáo Pháp ngày càng tỏ rạng hơn. Người
nào hiểu biết Giáo Pháp hiểu biết chính mình, và người hiểu biết
chính mình cũng hiểu biết Giáo Pháp. Ngày nay chỉ có phần tinh
khiết còn lại của Giáo Pháp là được chấp nhận. Thật ra thì Giáo
Pháp ở khắp cùng. Không cần phải lẩn đến nơi nào để tìm. Thay vì đi
đâu tìm, hãy lẩn đến bằng trí
tuệ, lẩn đến bằng trí minh mẫn sáng suốt, lẩn đến bằng hạnh khôn
khéo tinh xảo. Không nên lẩn đến Giáo Pháp bằng si mê. Nếu
muốn thật sự an lạc, trạng thái an lạc ấy phải là an lạc của trí
tuệ. Ðủ rồi! Chỉ có bấy nhiêu!
Bất luận lúc nào thấy Giáo Pháp thì đó là con đường
chánh, đúng là chánh đạo. Ô nhiễm chỉ là ô nhiễm, tâm chỉ
là tâm. Mỗi khi ta buông bỏ và tự tách rời để thấy sự vật chỉ là
sự vật, như thật sự nó là vậy, chừng đó ta nhận thức rằng nó chỉ
là trần cảnh, những đối tượng của ta.
Khi đã đi đúng trên con đường chánh ta trở thành hoàn toàn
trong sạch, không còn khuyết điểm, tức luôn luôn có trạng thái
siêu thoát và tự tại.
Ðức Phật dạy: "Hãy lắng tai nghe, nầy chư tỳ
khưu, chớ nên bám níu vào các pháp". Nơi đây, "các pháp" có nghĩa
là "các pháp hữu lậu" [*]. Các pháp hữu lậu ấy là gì? -- Nó là tất
cả. Không có bất luận sự vật nào hay hiện tượng nào trên thế gian
mà không phải là pháp hữu lậu. Tình thương và thù hận là pháp hữu
lậu, hạnh phúc và đau khổ là pháp hữu lậu, ưa thích và ghét bỏ là
pháp hữu lậu. Tất cả những sự việc ấy, dầu là ít oi
không đáng kể như thế nào, đều là pháp hữu lậu. Khi ta thực
hành Giáo Pháp, khi thấu hiểu sâu xa, ta có thể buông bỏ và để cho
nó trôi qua. Và như thế, ta có thể làm đúng theo lời của Ðức Tôn
Sư là "không bám níu vào các pháp hữu lậu".
[*] Dhamma và dhamma: nên ghi nhận những ý
nghĩa khác nhau của danh từ "dhamma" (định luật thiên nhiên về
sự giải thoát mà Ðức Phật đã tìm ra và truyền dạy) và "dhamma" (đối
tượng của tâm), "các pháp hữu lậu" -- cũng được gọi là
các pháp hữu vi, hay các hành, hoặc các sự vật
được cấu tạo.
Tất cả những hiện tượng phát sanh trong tư
tưởng, tất cả những hiện tượng phát sanh trong tâm, tất cả những
hiện tượng phát sanh đến thân của chúng ta đều ở trong trạng thái
luôn luôn biến đổi. Ð ức Phật dạy không nên bám níu vào bất
luận gì. Ngài dạy hàng đệ tử hành thiền nhằm tách rời ra khỏi
những điều ấy chớ không phải hành để
đạt đến điều gì. Hành để buông bỏ chớ không phải hành để có
thêm được gì.
Nếu hành đúng theo lời dạy của Ðức Phật là
chúng ta hành đúng. Hành đúng, nhưng cũng phiền phức. Không phải
giáo huấn của Ðức Phật là phiền phức mà chính những ô nhiễm của
chúng ta là phiền phức. Những ô nhiễm được hiểu biết sai lầm gây
phiền phức cho chúng ta. Thật ra, hành đúng theo giáo huấn mà Ðức
Phật truyền dạy thì không có gì phiền phức. Ta có thể nói rằng bám
sát vào con đường của Ðức Phật không đem
lại đau khổ vì Con Ðường chỉ giản dị là buông bỏ, "để trôi
qua", tức không bám níu vào bất luận pháp nào!
Ðến mức cùng tột, trong pháp hành thiền của
Phật Giáo Ðức Phật dạy thực hành nghệ thuật
"để trôi qua", "buông bỏ", chớ nên mang theo bất luận gì!
Hãy buông bỏ! Nếu thấy điều tốt đẹp,
hãy để nó trôi qua. Nếu thấy điều chân chánh, hãy để nó trôi qua.
Nói rằng "để nó trôi qua" không có nghĩa là không làm gì
hết, mà thật sự có nghĩa là phải hành phương pháp "để trôi qua" ấy.
Phương pháp ấy là: không dính mắc, không luyến ái, không bám níu,
mà buông bỏ.
Ðức Phật dạy ta quán tưởng tất cả các pháp,
phát triển Con Ðường bằng cách quán niệm thân và tâm của chúng ta.
Giáo Pháp không ở đâu khác. Nó ở ngay
tại đây! Không phải ở nơi nào xa lạ mà trong chính cái thân
và cái tâm nầy của ta.
Như vậy hành giả phải tinh tấn hành thiền. Phải
làm cho tâm của mình càng to lớn hơn và ngày càng sáng suốt, tỏ
rạng hơn. Phải làm cho nó tự do và độc
lập. Khi đã thực hiện một hành động thiện, không nên mang
nó theo trong tâm mà để nó trôi qua.
Khi đã tự chế, không làm một điều bất thiện, hãy để nó trôi
qua. Ðức Phật dạy ta sống trong hiện tại kế cận nhất, nơi đây, và
trong khoảnh khắc nầy. Chớ nên dể duôi tự buông trôi, lạc lối
trong quá khứ hay trong vị lai.
Giáo huấn mà người ta ít lãnh hội nhất, mà cũng
thường xung đột nhất với quan niệm
của người đời là "hãy để trôi qua", hoặc "hành động với cái
tâm rỗng không". Ðây chỉ là một lối nói theo "ngôn ngữ của Giáo
Pháp". Khi diễn đạt giáo huấn nầy qua
ngôn ngữ thông thường của thế gian thì chúng ta trở nên mơ
hồ, bối rối, và nghĩ rằng ta có thể làm bất luận gì mà ta muốn. Có
thể diễn dịch như vậy, nhưng ý nghĩa thật sự gần nhất của lời dạy
nầy là: Cũng như ta khuân một tảng đá
nặng. Ði một đổi, ta cảm nghe tảng đá càng nặng hơn, nhưng
không biết phải làm thế nào để buông bỏ, tách rời nó ra. Và như
vậy, ta cắn răng mãi chịu đựng sức
nặng của tảng đá. Nếu có ai thấy vậy bảo ta quẳng nó đi, ta sẽ nói,
"nếu quẳng nó đi thì tôi còn gì?" Nếu có ai giải thích cho
ta về những lợi ích của sự buông bỏ tảng đá xuống, ắt ta không tin
và nghĩ rằng, "nếu quẳng nó đi ta sẽ không còn lại gì." Và như vậy,
ta tiếp tục khuân vát tảng đá cho đến
khi quá mệt mỏi, yếu dần và kiệt sức, không còn
chịu đựng được nữa. Chừng đó ta buông tảng đá xuống.
Khi buông tảng đá xuống bỗng nhiên ta
kinh nghiệm lợi ích của sự buông bỏ. Trong tức khắc ta cảm nghe
thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, và chính tự bản thân, ta nhận thức
rằng khuân vác, mang kè kè theo mình một tảng đá là nhọc nhằn như
thế nào. Trước khi tự tách rời, buông nó ra, ta không thể hiểu
biết lợi ích của sự buông xả. Do đó nếu có ai khuyên hãy buông bỏ,
người chưa giác ngộ sẽ không thông hiểu tại sao phải buông bỏ.
Người ấy sẽ bám níu tảng đá một cách mù quáng và từ chối, nhất định
không buông ra, cho đến khi cảm nghe quá nặng, mình không
còn chịu nổi nữa mới chịu buông bỏ, quẳng xuống gánh nặng. Chừng
ấy mới nghe nhẹ nhàng, thoải mái dễ chịu, và chính tự bản thân
lãnh hội đầy đủ những lợi ích của
sự buông xả. Về sau, có thể ta còn bắt đầu
khuân một tảng đá khác, nhưng lúc bấy giờ ta đã hiểu biết hậu quả
của việc khuân vát một tảng đá là nặng nhọc như thế nào, và
ta sẽ buông bỏ dễ dàng hơn. Sự hiểu biết rằng mang gánh nặng trên
vai đi quanh quẩn là vô ích và đặt nó xuống, bỏ nó lại, sẽ tạo cho
mình trạng thái nhẹ nhàng thoải mái là một trường hợp cho thấy lợi
ích của sự tự hiểu biết mình.
Tính ngã mạn [*] của chúng ta và ý niệm về một
tự ngã mà ta bị chi phối nặng nề cũng giống như tảng đá. Cũng dường
như đối với tảng đá, nếu nghĩ đến việc buông bỏ, không chấp vào
cái tự ngã của mình thì ta sợ rằng sẽ không còn gì hết. Nhưng cuối
cùng, khi buông bỏ được rồi tự chính ta nhận thức rằng không bám
níu là thoải mái dễ chịu.
[*] Nơi đây danh từ "ngã mạn" được
phiên dịch từ Phạn ngữ "Màna", không chỉ có nghĩa là tự cao tự đại
như thường danh từ nầy được hiểu. "Màna", ngã mạn, là cố
chấp vào cái "ngã" của mình và so sánh. Tự cho mình là hơn người,
tự cho mình là bằng người, và tự cho mình là thua kém người, là
ba hình thức khác nhau của tâm ngã mạn. Ngã mạn là một trong
mười thằng thúc, tức mười dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng
luân hồi. Ðến khi chứng đắc Ðạo Quả A La Hán mới tận diệt được
thằng thúc "ngã mạn". (Lời người
dịch)
Trong pháp luyện tâm ta phải tập buông xả,
không bám vào lời khen hay tiếng chê. Muốn được ngợi khen và không
muốn bị khiển trách là con đường của
thế gian. Con đường của Ðức Phật là chấp nhận lời khen khi
đáng được ngợi khen và chấp nhận lời
khiển trách khi đáng bị khiển trách. Chẳng hạn như dạy dỗ
trẻ con, nếu ta không rầy la suốt ngày thì thật là rất tốt. Có
người rầy la quá nhiều. Người sáng suốt biết la rầy đúng lúc và
khen ngợi đúng lúc. Tâm ta cũng vậy. Hãy dùng trí để hiểu biết tâm.
Hãy khôn khéo chăm sóc tâm. Chừng ấy ta sẽ trở thành người có tài
luyện tâm. Và khi đã trở nên thuần thục, tâm có thể loại trừ đau
khổ. Ðau khổ ở ngay tại đây, trong tâm ta. Ðau khổ luôn luôn làm
cho sự vật trở nên phức tạp, luôn luôn biến chế, luôn luôn sáng
tạo, làm cho tâm nặng nề. Nó phát sanh
ngay tại đây và cũng hoại diệt tại nơi nầy.
Bẩm chất của tâm là vậy. Ðôi khi có những tư
tưởng thiện, lắm lúc có những tư tưởng bất thiện. Tâm quả thật
gian xảo. Không nên tin nó. Thay vì tin, hãy nhìn thẳng vào sinh
hoạt của nó. Nó như thế nào hãy chấp nhận nó là vậy. Nó chỉ là nó
thôi. Dầu là thiện, bất thiện, hay thế nào đi nữa, nó là vậy.
Không hơn, không kém. Nếu ta bám chặt vào ắt bị nó cắn và sẽ đau
khổ.
Với "chánh kiến" chỉ có an tĩnh. Tâm định ( samàdhi)
phát sanh và nhường chỗ cho trí tuệ. Dầu trong tư thế nào, bất
luận nơi nào mà ta ngồi hoặc nằm, chỉ có trạng thái an tĩnh. An
tĩnh ở khắp nơi, dầu ta đi đâu cũng
vậy.
Hôm nay quý Sư Huynh mang đệ tử đến đây để nghe
Giáo Pháp. Có lẽ quý vị lãnh hội được một vài điểm của thời Pháp.
Cũng có vài điểm quý vị không lãnh hội. Nhằm giúp quý vị
thấu hiểu dễ dàng Sư đã đề cập đến
pháp hành thiền. Dầu quý vị nghĩ rằng lời của Sư đúng hay không
đúng, hãy thọ lãnh và suy niệm.
Chính Sư đây cũng là một thiền sư như quý Sư.
Sư cũng đã có trải qua những trường hợp
khó khăn tương tợ. Sư cũng vậy, rất thèm muốn được nghe Giáo Pháp
bởi vì đi đến đâu Sư cũng phải giảng cho người khác chớ không bao
giờ được cơ hội để nghe. Như vậy, lần nầy quý Sư thật sự thưởng
thức một thời Pháp do một thiền sư thuyết giảng. Thời gian
trôi qua rất nhanh khi ta ngồi im lặng lắng nghe Giáo Pháp. Quý vị
thèm khát được nghe Giáo Pháp nên hôm nay thật sự quý vị muốn nghe.
Lúc ban đầu, thuyết giảng Giáo Pháp cho người khác là một thích
thú, nhưng sau một thời gian cái thích thú ấy cũng tan dần. Ta cảm
thấy nhàm chán và mệt mỏi, thế rồi ta muốn nghe. Do đó, khi lắng
nghe một vị thiền sư thuyết giảng ta lấy làm hứng thú và lãnh hội
dễ dàng. Khi đã lớn tuổi và đang thèm khát Giáo Pháp thì hương vị
của Giáo Pháp quả thật đặc biệt thích thú.
Là thầy của những người khác quý Sư là gương
lành cho họ, là khuôn vàng thước ngọc cho những vị tỳ khưu đệ tử
của quý Sư. Quý Sư là khuôn mẫu cho hàng đệ tử, là gương sáng cho
tất cả mọi người. Vì lẽ ấy chớ nên quên mình. Cũng chớ nên nghĩ
đến mình. Khi có những tư tưởng vị kỷ phát sanh, hãy loại trừ nó
đi. Làm được vậy là tự hiểu biết mình.
Có hằng triệu đường lối hà nh thiền. Nói
về pháp hành thiền thì không cùng. Có rất nhiều điều làm cho ta
hoài nghi. Hãy dẹp sạch nó đi thì không còn hoài nghi nữa! Khi có
chánh kiến thì dầu ngồi đâu, đi nơi
nào, cũng được an tĩnh và thoải mái. Bất luận nơi nào mà ta
ngồi xuống hành thiền thì đó là nơi mà ta chú niệm và luôn luôn
tỉnh thức. Chớ nên đinh ninh rằng chỉ có lúc ngồi và khi đi mới
hành thiền. Tất cả mọi sự vật và bất luận nơi nào cũng có thể tỉnh
thức. Lúc nào cũng có thể chú niệm. Bất luận nơi nào ta cũng có
thể thấy thân và tâm luôn luôn sanh diệt. Chớ nên để
nó động lại trong tâm. Hãy để cho nó trôi qua.. Nếu có tình thương
đến, hãy để nó trôi qua và đi về nhà. Nếu
có tham ái đến, hãy để cho nó đi luôn về nhà. Nếu có sân hận đến,
hãy để cho nó đi luôn về nhà. Theo dõi nó! Xem coi nó ở đâu,
rồi hộ tống nó đi. Không nên cất giữ bất cứ gì. Nếu thực
hành như thế ta có thể giống như một ngôi nhà trống. Hoặc nữa,
giải thích theo một lối khác, đó là
cái tâm trống không. Một cái tâm rỗng không, không còn chứa đựng
mảy may bất thiện pháp nào. Ta gọi nó là "tâm rỗng không", nhưng
không phải rỗng không là không có gì trong đó. Rỗng không, không
còn chứa chấp mảy may bất thiện pháp nào, nhưng nó đầy
trí tuệ. Chừng đó, bất cứ điều gì mà ta làm, ta làm với trí
tuệ. Ta sẽ suy tư với trí tuệ. Ta sẽ ăn uống với trí tuệ. Chỉ còn
lại trí tuệ.
* * *
Bấy nhiêu đó là những lời dạy ngày hôm nay mà
Sư lấy làm hoan hỷ hiến tặng quý Sư. Thời
Pháp nầy đã được ghi âm. Nếu nghe
Pháp mà tâm quý Sư được an tĩnh thì bấy nhiêu đó
cũng đủ rồi. Quý Sư không cần phải ghi nhớ điều gì. Nói vậy
có thể vài người không tin. Nhưng nếu ta giữ tâm an tĩnh và chỉ
nghe thôi, cứ để thời Pháp trôi qua và liên tục suy tưởng, tức
nhiên ta cũng giống như cái máy ghi âm. Về sau, khi ta vặn nó lại
để nghe thì tất cả đều còn đó. Chớ nên sợ rằng sẽ không có gì. Mỗi
khi mà quý Sư vặn lên cái máy ghi âm của quý Sư để nghe thì tất cả
đều còn đó.
Sư muốn tặng thời Pháp nầy đến tất cả
quý Sư và tất cả mọi người. Có thể vài người trong quý vị chỉ biết
chút ít tiếng Thái, nhưng không hề gì. Ước mong quý vị có thể học
ngôn ngữ của Giáo Pháp. Bấy nhiêu cũng tốt rồi!
[1] Ngài Ajahn Mun có lẽ là vị Thiền Sư được
quý trọng nhất và cũng có nhiều uy tín nhất tại Thái Lan trong thế
kỷ nầy. Theo sự hướng dẫn của Ngài tập tục thực hành hạnh Ðầu Ðà (Dhutanga
kammatthàna) của chư vị tỳ khưu sống
trong rừng đã trở thành quan trọng. Phần lớn các Ngài Ðại
Thiền Sư hiện nay và những vị đã viên tịch trong thời gian gần đây
đều, hoặc là đệ tử chánh thức hoặc đã chịu nhiều ảnh hưởng
của Ngài. Ajahn Mun tịch diệt vào tháng 11 năm 1949.
[2] Ajahn Sao là thầy của Ajahn Mun.
-ooOoo-
[06]
Sống Với Rắn Ðộc
(Dưới đây là một bài Pháp ngắn do Ngài
Ajahn Chah thuyết giảng cho một cụ bà người Anh vừa trải qua thời
gian hai tháng, vào cuối năm 1978 và đầu
năm 1979, tu học dưới sự hướng dẫn của Ngài, trước khi cụ
bà lên đường về xứ).
Ð ây là thời Pháp được thuyết giảng vì
lợi ích của một vị đệ tử mới, sắp lên đường trở về Luân Ðôn
(London). Ước mong rằng những lời dạy nầy sẽ giúp Cụ lãnh hội Giáo
Huấn đã thọ nhận tại Wat Pah Pong nầy.
Một cách giản dị, đây là pháp
hành nhằm vượt thoát ra khỏi mọi khổ đau của vòng luân hồi.
Nhằm thực hành pháp môn nầy xin Cụ hãy ghi nhớ
nằm lòng: phải nhìn tất cả mọi sinh hoạt khác nhau của tâm, tất cả
những gì Cụ ưa thích và tất cả những gì Cụ ghét bỏ, giống như Cụ
nhìn một con rắn độc. Rắn độc vô cùng
nguy hiểm. Nọc độc của rắn đủ sức làm
cho ta chết ngay nếu vô phúc bị nó cắn. Những cơn vui buồn thương
ghét của ta cũng dường thế ấy. Những cơn vui mà ta ưa thích là con
rắn độc, và những cơn buồn mà ta ghét bỏ cũng là con rắn độc.
Cả hai đều ngăn ngừa không để cho tâm
của ta được tự do, và tạo chướng ngại, không cho chúng ta thông
hiểu chân lý đúng theo như Ðức Phật dạy.
Như vậy cần phải cố gắng, ngày đêm gia công bảo
trì chánh niệm. Dầu trong lúc đang làm
gì, đi, đứng, nằm, ngồi, nói chuyện
hay bất luận làm gì khác, luôn luôn phải làm với chánh niệm.
Khi niệm được củng cố vững vàng,
sự hiểu biết rõ ràng sẽ phát sanh, chung hợp với niệm. Niệm và
hiểu biết rõ ràng sẽ khởi duyên cho trí tuệ phát sanh. Như vậy
niệm, hiểu biết rõ ràng và trí tuệ cùng chung nhau sinh hoạt và
lúc ấy ta sẽ như người ngày đêm "thức tỉnh".
Những Lời Dạy mà Ðức Phật ban truyền cho chúng
ta không phải là Giáo Huấn chỉ để
nghe suông, hoặc chỉ giản dị để lãnh hội ở mức độ trí thức.
Những Lời Dạy ấy là Giáo Huấn mà xuyên qua pháp hành, có thể thấm
nhuần ăn sâu vào tâm thức.
Dầu đi đâu hay làm gì ta luôn
luôn có những Lời Dạy ấy. Ý nghĩa của
đoạn "có những Lời Dạy ấy", hay "có Chân Lý" là: dầu chúng
ta làm gì, dầu nói gì, chúng ta luôn luôn nói và làm với trí tuệ.
Khi suy tư hay quán niệm, chúng ta suy tư và quán niệm với trí tuệ.
Chúng ta nói rằng người có chánh niệm và giác tỉnh -- niệm, hiểu
biết rõ ràng, phối hợp với trí tuệ như vậy là người sống gần Ðức
Phật.
Khi rời nơi nầy Cụ phải gia công đưa tất cả trở
và o tâm mình. Hãy nhìn cái tâm của mình với chánh niệm,
hiểu biết rõ ràng, và phát triển trí tuệ.
Với ba yếu tố ấy chung hợp lại sẽ
phát sanh trạng thái "buông xả", để cho tất cả đi qua, không dính
mắc hay bám níu vào bất cứ gì.
Cụ sẽ nhận thức rằng tất cả mọi hiện tượng đều luôn luôn sanh và
diệt.
Cụ phải biết rằng cái gì phát sanh và hoại diệt
chỉ là sinh hoạt của tâm. Khi một hiện tượng phát sanh nó liền
hoại diệt, và liền theo đó chuỗi dài sanh-diệt không ngừng tiếp
nối với nhau. Trong ngôn ngữ của Giáo Pháp ta gọi sự sanh diệt ấy
là "sanh và tử", và đó là tất cả. Tất cả chỉ là vậy!
Khi đau khổ phát sanh, nó liền trôi
qua. Và khi nó trôi qua đau khổ phát sanh trở lại [*].
Chỉ có đau khổ phát sanh và
hoại diệt. Khi thấy được bấy nhiêu
Cụ sẽ có thể thấu hiểu một cách thường xuyên trạng thái sanh và
diệt, và khi thông suốt như vậy Cụ sẽ thấy rằng trong thực tế chỉ
có thế. Tất cả mọi sự vật chỉ là sanh và tử, không có bất luận gì
tồn tại. Chỉ có sanh và diệt như thế ấy. Chỉ thế thôi!
[*] Nơi đây danh
từ "đau khổ" hàm xúc đặc tướng bất toại nguyện của tất cả mọi
kiếp sinh tồn trong thế gian vô thường luôn luôn biến đổi nầy. Ở
đây không phải là sự đau khổ như thông thường được hiểu, nghịch
nghĩa với hạnh phúc.
Lối nhìn nầy sẽ khơi động cảm giác thản nhiên
an tĩnh đối với thế gian. Một
cảm giác tương tợ phát sanh khi ta nhận thức rằng trong thực tế
không có gì đáng được ham muốn;
chỉ có sanh và diệt. Chúng sanh vào đời
rồi từ giã cuộc đời. Ðó là khi tâm tiến đạt
đến "buông bỏ", để cho tất cả mọi sự vật trôi qua theo bản
chất thiên nhiên của nó. Sự vật phát sanh rồi hoại diệt ngay trong
tâm của ta, và ta thông hiểu như vậy. Khi hạnh phúc phát sanh, ta
thấu hiểu. "Hiểu biết hạnh phúc" có nghĩa là ta không tự đồng hóa
mình với nó, không xem hạnh phúc là "của mình". Và cùng thế ấy, ta
không đồng hóa và xem bất toại nguyện và những điều bất hạnh là "của
ta". Khi đã không còn tự đồng
hóa mình với, và bám níu vào, hạnh phúc và đau khổ, ta chỉ tách
rời, sống riêng với đường lối thiên nhiên của vạn hữu.
Vì lẽ ấy chúng ta
nói rằng sinh hoạt tâm linh cũng tựa hồ như con rắn độc.
Nếu ta không động đến rắn thì nó chỉ
theo con đường của nó. Mặc dầu là rắn độc,
dầu nọc độc của nó vô cùng nguy hiểm và nếu bị nó cắn ắt
không phương cứu chữa, nhưng nếu không đến gần nó hay không nắm
bắt nó ta vẫn không hề gì. Nó sẽ không cắn ta.
Rắn độc chỉ hành động theo bản chất
thiên nhiên của một con rắn độc. Nó là vậy! Nếu là người
sáng suốt ta cứ để nó yên một mình. Cùng thế ấy, hãy buông bỏ
những gì tốt đẹp, để nó yên.
Ta cũng để yên những gì không
tốt đẹp -- hãy để cho nó theo bản chất thiên nhiên của nó. Hãy để
yên những gì ta ưa thích và những gì ta ghét bỏ, cũng như ta để
yên, không động đến con rắn độc.
Vậy người thông minh sáng suốt sẽ có thái độ
tương tợ, đối với những cơn vui buồn khác nhau phát sanh đến tâm
mình. Khi điều tốt đẹp khởi
sanh, hãy để yên cho nó tốt đẹp, nhưng ta cũng thấu hiểu.
Ta thấu hiểu bản chất thiên nhiên của nó.
Khi điều không tốt đẹp khởi phát cũng
vậy, hãy để yên cho nó theo đúng bản chất thiên nhiên của
nó. Không nắm giữ lại, bởi vì chúng ta không muốn gì cả.
Chúng ta không muốn điều xấu, cũng
không muốn điều tốt. Chúng ta
không muốn nặng, cũng không muốn nhẹ, không muốn hạnh phúc cũng
không muốn đau khổ. Ðến chừng ấy, bằng đường lối nầy, lòng
ham muốn chấm dứt và trạng thái thanh bình an lạc được củng cố
vững chắc.
Khi được có loại an lạc nầy vững chắc củng cố
trong tâm, ta có thể nương tựa và o và tùy thuộc nơi đó.
Ta nói rằng trạng thái an lạc nầy đã
phát sanh từ tình trạng vọng động mê mờ.
Giờ đây rối loạn và si mê chấm
dứt. Ðức Phật gọi sự thành đạt Giác Ngộ cuối cùng là "sự dập tắt",
trong ý nghĩa giống như ta dập tắt một ngọn lửa. Khi ngọn lửa bên
ngoài được dập tắt, thì có sự "mát mẻ". Khi các ngọn lửa tham ái,
sân hận và si mê bên trong được dập
tắt, ắt cũng có trạng thái "mát mẻ". Giác ngộ và si mê cùng
hiện hữu ở một nơi, giống như nóng và lạnh.
Giờ đây là nóng, ngay tại nơi
mà trước kia là lạnh. Khi nóng là hết lạnh, và khi lạnh là không
còn nóng. Niết Bàn và luân hồi cũng cùng thế ấy.
Ta dập tắt ngọn lửa ngay ở nơi mà nó khởi phát.
Nơi nào nóng, ta có thể làm cho mát. Sự Giác Ngộ cũng vậy. Ðó là
sự chấm dứt vòng luân hồi [*], ngưng lại cuộc vận chuyển triền
miên của vòng quanh mê hoặc.
[*] Samsàra, Ta-Bà, vòng luân hồi -- theo
đúng ngữ nguyên, là cuộc đi thênh thang bất định triền miên --
là danh từ thường được dùng để chỉ
những kiếp sống thăng trầm trong biển trầm luân triền miên
tiếp diễn, hình ảnh của tiến trình vô tận những hoàn cảnh sanh,
già. bệnh, chết.
Ðó là bản chất thiên nhiên của sự Giác Ngộ, dập
tắt lửa nóng, làm mát lại những gì trước kia là nóng. Ðó là an lạc,
là chấm dứt luân hồi. Khi Cụ thành đạt Giác Ngộ thì đó là vậy. Ðó
là chấm dứt cuộc vận chuyển, dừng lại mọi si mê trong tâm ta.
Chúng ta mô tả trạng thái chấm dứt nầy bằng những danh từ khác
nhau hàm ý "hạnh phúc", bởi vì đó là phương cách mà con người thế
gian hiểu lý tưởng mình là như vậy, nhưng thật sự nó đã vượt lên
khỏi, vượt ra ngoài mọi tưởng tượng của người thế. Nó vượt lên
khỏi hạnh phúc và đau khổ. Nó là thanh bình an lạc toàn hảo.
Trong khi chuẩn bị lên đường Cụ hãy giữ lấy lời
dạy của Sư ngày hôm nay và thận trọng quán niệm. Những ngày mà Cụ
đã trải qua tại đây không được mấy dễ
dàng và Sư không có nhiều cơ hội để chỉ dạy Cụ.
Nhưng giờ đây Cụ đã có thể học
hỏi ý nghĩa thật sự của pháp hành. Ước mong rằng pháp hành nầy có
thể dẫn dắt Cụ đến hạnh phúc. Ước mong nó sẽ giúp Cụ trưởng thành
trong chân lý. Ước mong Cụ sẽ thoát
khỏi mọi đau khổ của vòng luân hồi.
-ooOoo-
[07]
Ðọc Cái Tâm Thiên Nhiên
(Dưới đây là những lời khuyên dạy của
Ngài Ajahn Chah đến một nhóm thiền sinh tu sĩ vừa mới xuất gia tỳ
khưu, giữa mùa An Cư Kiết Hạ năm
1978, sau khi đọc kinh buổi chiều)
Ð ường lối thực hành của chúng ta là tận
tường nhìn sự vật và thấy sự vật rành mạch, rõ ràng. Chúng ta kiên
trì cố gắng và đều đặn chuyên
cần, nhưng không hấp tấp vội vàng.
Cũng không quá lơ đễnh buông lơi để bê trễ. Ðây là vấn đề
tuần tự dò dẫm lối đi và dần dần góp nhặt, gom chung lại. Tuy
nhiên, mọi tập trung nầy đều hướng về một cái gì. Pháp hành của
chúng ta có một mục tiêu.
Ðối với phần đông
chúng ta, lúc bắt đầu hành thiền thì không có ý gì khác
ngoài lòng mong muốn. Chúng ta khởi sự hành thiền vì ham muốn. Vào
giai đoạn nầy tâm ham muốn của chúng ta là ham muốn một cách sai
lầm. Ðó là si mê, là ham muốn ảo huyền, là lòng ham muốn pha lẫn
với tà kiến. Nếu ham muốn không lẫn lộn với tà kiến như thế đó thì
ta nói là ham muốn với trí tuệ, pannà [*]. Ham muốn với trí
tuệ thì không phải là si mê. Ðây là ham muốn với chánh kiến.
Trong trường hợp nầy ta nói rằng được
vậy là nhờ Ba La Mật, nói cách khác, là do thiện nghiệp
tích trữ từ trong quá khứ. Dầu sao không phải là trường hợp của
tất cả mọi người.
[*] Danh từ "pannà" nầy (phiên âm là "bát nhã")
có nhiều ý nghĩa khác nhau, từ kiến thức thông thường đến sự
hiểu biết sâu sắc, chí đến tuệ Minh Sát, thấu triệt thâm sâu vào
Chân Lý (Dhamma, Giáo Pháp). Mặc
dầu có thể được dùng trong nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng
danh từ nầy luôn luôn hàm xúc sự thấu triệt Chân Lý ngày càng
thâm sâu, dần đến tột đỉnh là
tuệ Minh Sát và Giác Ngộ.
Vài người không muốn có tâm ham muốn, hoặc họ
muốn có tâm không ham muốn. Bởi vì họ nghĩ rằng pháp hành của
chúng ta nhằm Chấm Dứt ham muốn. Tuy nhiên, nếu không ham muốn,
nếu không có ý muốn hành ắt không thực hành.
Chúng ta có thể tự mình nhận thấy điều nầy. Ðức
Phật và tất cả các vị đệ tử của Ngài hành thiền để chấm dứt ô
nhiễm. Chúng ta phải muốn hành thiền và phải muốn chấm dứt ô nhiễm.
Chúng ta phải muốn có tâm an lạc thanh bình, và phải muốn không
vọng động. Tuy nhiên, nếu tâm ham muốn nầy mà lẫn lộn với tà kiến
thì nó chỉ đem lại cho ta nhiều khó
khăn phiền phức hơn. Nếu thành thật với chính mình ta sẽ
nhận thức rằng chúng ta thật sự không hiểu biết gì cả, hoặc những
gì ta hiểu không mang lại hậu quả tốt đẹp nào, vì chúng ta không
thể xử dụng nó một cách thích nghi.
Tất cả mọi người, kể cả Ðức Phật, đều
bắt đầu như thế ấy, với lòng muốn hành thiền, muốn có tâm
thanh bình an lạc, muốn tâm không bị vọng động và đau khổ. Hai
loại ham muốn kể sau có giá trị y hệt bằng nhau.
Nếu không hiểu biết đúng mức thì cả
hai -- muốn tâm không bị vọng động và muốn không đau khổ -- đều là
ô nhiễm. Ðó là ham muốn điên cuồng, ham muốn không có trí tuệ.
Trong pháp hành của chúng ta, ta nhìn thấy tâm
ham muốn nầy là, hoặc lợi dưỡng buông trôi theo dục lạc, hoặc khổ
hạnh khắc kỷ ép xác. Chính Ðức Phật, Ðức Bổn Sư của chúng ta, cũng
đã bị dính kẹt trong tình trạng xung đột nầy. Ngài hành theo nhiều
phương pháp khác nhau, nhưng rốt cùng rồi cũng rơi vào hai cực
đoan nầy. Ngày nay chúng ta cũng rơi vào tình trạng giống y hệt
như vậy. Ta vẫn còn bị cặp đôi nầy chi phối và vẫn còn tiếp tục
tách rời, xa lìa Con Ðường.
Dầu sao đó là phương cách mà ta phải bắt
đầu. Ta phải bắt đầu như những chúng
sanh phàm tục, những chúng sanh có nhiều ô nhiễm, những
chúng sanh ham muốn mà không có trí tuệ, ham muốn mà không có
chánh kiến. Nếu chúng ta không hiểu biết thích nghi thì cả hai
loại ham muốn nầy sẽ chống lại ta.
Dầu muốn hay không muốn, đó vẫn là ái dục (tanhà).
Nếu thông suốt hai điểm nầy ta sẽ
không biết phải làm cách nào để
đối phó với chúng khi nó phát sanh. Chúng ta sẽ cảm thấy
rằng tiến tới là sai lầm, thối lui cũng sai lầm, mà ta không thể
dừng lại. Làm bất luận gì rồi ta chỉ thấy rằng vẫn còn ham muốn
thêm nữa. Ðó là vì kém trí tuệ và còn ái dục.
Chính ở ngay tại đây, với ý muốn và ý
không muốn, ta có thể thấu hiểu Giáo Pháp. Giáo Pháp mà
chúng ta đang mong tìm hiện ở ngay tại đây, nhưng ta không trông
thấy. Chúng ta lại cố gắng chấm dứt lòng ham muốn. Chúng ta
muốn sự vật phải như thế nầy và không phải như thế nào khác. Hoặc
chúng ta muốn sự vật không phải như thế nầy mà phải như thế nào
khác. Ðúng ra, hai điều nầy cũng là một. Chúng là hai thành phần
của một cặp.
Có lẽ chúng ta không nhận thức rằng Ðức Phật và
tất cả những vị đệ tử của Ngài đều có loại ham muốn nầy. Nhưng Ðức
Phật thông suốt vấn đề muốn và không muốn. Ngài tận tường thấu
triệt rằng nó chỉ giản dị là sinh hoạt của tâm, và những sinh hoạt
tâm linh tương tợ chỉ phát sanh trong chớp nhoáng, rồi tan biến.
Những loại ham muốn như vậy luôn luôn liên tục tiếp diễn. Khi có
trí tuệ thì ta biết nó là vậy và không tự mình đồng hóa với nó.
Trong thực tế nó chỉ là sinh hoạt của cái tâm thiên nhiên. Khi
nhìn nó tận tường ta trông thấy rành mạch, rõ ràng nó là vậy.
Trí Tuệ Phát Sanh Do Kinh Nghiệm Hằng Ngày
Như vậy, chính tại nơi đây mà pháp hành
quán niệm dẫn chúng ta đến trí tuệ minh mẫn. Hãy lấy thí dụ anh
thợ chài kéo lên một con cá to trong lưới. Quý Sư nghĩ thế nào về
cảm giác của anh ta trong khi kéo chài lên? Sợ làm sẩy một con cá
to anh ta luýnh quýnh hối hả, chiến đấu với cái chài. Vội vàng
chụp nhanh lấy đầu lưới và rán sức kéo lên.
Nhưng cá đã vượt thoát ra khỏi
lưới trước khi anh hay biết. Anh đã
cố gắng quá sức.
Vào những ngày xa xưa người ta cũng nói như vậy.
Vào thời ấy người thợ chài được dạy là phải từ từ kéo lưới lên và
cẩn thận gom túm cái chài lại mà
không để mất cá. Pháp hành của chúng ta cũng cùng thế ấy.
Chúng ta từ từ dọ dẫm đường lối và
thận trọng góp nhặt, gom chung lại mà không để mất mát. Ðôi khi
chúng ta không cố tâm làm như vậy. Có thể chúng ta không muốn nhìn,
hoặc có thể chúng ta không muốn biết, nhưng vẫn tiếp tục làm như
vậy. Chúng ta tiếp tục muốn như vậy. Pháp thực hành phải như thế
nầy: Nếu chúng ta cảm nghe thích hành thiền, hãy cứ hành. Nếu cảm
nghe không thích, vẫn cứ hành y như vậy. Chúng ta chỉ tiếp tục
hành thiền.
Nếu chúng ta thực hành một cách nhiệt thành,
oai lực của đức tin sẽ cho ta đầy đủ
khả năng để thực hiện điều mong muốn. Nhưng vào giai đoạn
nầy chúng ta chưa có trí tuệ. Mặc dầu tinh tấn chuyên cần chúng ta
không thọ hưởng được bao nhiêu lợi ích của pháp hành. Ta có thể
tiếp tục thực hành như vậy trong một thời gian lâu dài rồi một cảm
nghĩ sẽ phát sanh rằng ta không tìm ra Con Ðường. Ta có thể cảm
nghe mình không thể tìm được an lạc và thanh bình, hoặc ta không được
trang bị đầy đủ để thực hành. Hoặc nữa, ta có thể cảm nghe
Con Ðường quá xa xôi, quá viển vông, không thể tìm ra. Rồi ta bỏ
cuộc!
Ðến mức nầy chúng ta phải hết sức, thật hết sức
thận trọng. Phải tận lực vận dụng đức
hạnh nhẫn nhục chuyên cần và kiên trì chịu đựng. Cũng chỉ
như kéo lên một con cá to trong lưới, phải từ từ dò dẫm đường lối.
Chúng ta thận trọng túm con cá lại trong lưới và dần dần kéo lên.
Cuộc chiến đấu sẽ không quá khó khăn.
Chúng ta không dừng tay mà nhè nhẹ kéo lưới lên một cách liên tục.
Như thế ấy, sau một lúc cá sẽ mệt mỏi, kiệt lực và không còn vùng
vẫy nữa. Ta sẽ dễ dàng bắt nó. Thông thường là vậy. Chúng ta thực
hành từ từ, tuần tự tiến hành và góp nhặt, gom chung lại những ý
nghĩ rời rạc.
Ðó là đường lối quán niệm của chúng ta. Nếu
không có kiến thức hay trình độ học hỏi nào về Giáo Lý thuần túy
lý thuyết chúng ta hãy quán niệm theo đúng với kinh nghiệm hằng
ngày của mình. Hãy xử dụng kiến thức mà mình sẵn có, kiến thức
thâu thập từ kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày. Ðối với tâm,
loại kiến thức nầy là thiên nhiên. Trên thực tế, dầu có nghiên cứu
học hỏi cùng không chúng ta vẫn có sẵn cái tâm hiện thực ngay tại
nơi đây. Tâm là tâm, dầu ta có học hỏi nghiên cứu cùng không. Vì
lẽ ấy ta nói rằng dầu Ðức Phật có thị hiện trên thế gian cùng
không mọi sự vật vẫn là vậy. Mọi sự
vật đã có hiện hữu đúng theo bản chất thiên nhiên của nó.
Hoàn cảnh thiên nhiên nầy không thay đổi,
cũng không di chuyển đi nơi nào khác. Ðường lối thiên nhiên
chỉ là vậy. Ðiều nầy được gọi là Sacca Dhamma,
Giáo Pháp đúng với Chân Lý. Tuy nhiên, nếu không thông hiểu
Chánh Pháp nầy ta sẽ không thể nhận ra nó.
Do đó chúng ta thực hành quán niệm theo đường
lối nầy. Nếu không đặc biệt
tinh thông kinh điển ta hãy quán chiếu chính cái tâm của
mình. Hãy nghiên cứu học hỏi và "đọc"nó. Chúng ta hãy thường xuyên
và liên tục quán niệm -- tự nói chuyện với mình. Ta sẽ thấu hiểu
dần dần bản chất thiên nhiên của tâm.
Kiên Trì Tinh Tấn
Chí đến lúc có thể dừng cái tâm lại khi chúng
ta tiến đạt đến trạng thái vắng lặng, tâm vẫn cò n y như
trước. Vì lẽ ấy Ðức Phật khuyên dạy, "Hãy tiếp tục hành thiền, hãy
kiên trì thực hành!" Có thể ta suy tư, "Nếu chưa biết thì làm sao
thực hành?" -- Chí đến khi ta có thể
hành thiền một cách thích nghi trí tuệ mới phát sanh. Do
vậy, hãy cứ tiếp tục thực hành. Nếu thường xuyên thực hành, không
chểnh mảng ngừng nghỉ, ta sẽ bắt đầu
quán xét đến việc mình đang làm.
Ta sẽ bắt đầu khảo sát pháp hành
của chúng ta. Không có gì xảy diễn trong tức khắc.
Do đó, lúc ban sơ ta sẽ không nhận
thấy thành quả rõ rệt nào của công phu hành thiền. Ðây cũng
giống như thí dụ người muốn làm ra lửa, cọ xát vào nhau hai que
củi. Anh tự nghĩ, "Người ta nói ở đây
có lửa", và ra sức hăng hái cọ xát hai que củi. Anh cọ mạnh
mẽ và tiếp tục cọ dữ dội không ngừng. Anh muốn có lửa. Anh vẫn
mong muốn có lửa. Nhưng lửa không phát sanh. Anh thối chí, nản
lòng, và ngưng lại, nghỉ một lúc. Rồi
anh bắt đầu trở lại công việc cọ xát hai que củi đến mệt và
ngừng nghỉ. Chẳng những anh mệt mỏi mà ngày càng nản chí, và cuối
cùng bỏ cuộc hoàn toàn, "ở đây không
có lửa!" Trong thực tế anh có cố gắng làm việc, nhưng làm
không đúng mức. Anh cọ xát hai que
củi, nhưng cọ không đến mức tạo đủ sức nóng khả dĩ làm cho
lửa phát sanh. Lửa lúc nào cũng vẫn tiềm tàng hiện hữu ở đó nhưng
người kia không thực hiện công tác của mình đến
nơi đến chốn.
Cùng một loại kinh nghiệm nầy làm cho người
hành thiền chán nản rồi quanh quẩn thay đổi phương pháp. Và cũng
một loại kinh nghiệm tương tợ xảy đến với chúng ta trong khi hành
thiền. Nó xảy đến với mọi người, cùng
một thế ấy. Tại sao? -- Bởi vì chúng ta còn dính kẹt trong ô
nhiễm. Xưa kia Ðức Phật cũng có ô nhiễm, nhưng đối
với vấn đề nầy Ngài có rất nhiều trí tuệ. Ngài sáng suốt vô
cùng. Trong khi còn là phàm nhân Ðức Phật và chư vị A La Hán cũng
chỉ như chúng ta. Còn là người thế gian nên dĩ nhiên chúng ta còn
suy tư lầm lạc. Do đó, khi lòng
ham muốn phát sanh ta không nhận thấy và khi lòng ham muốn không
phát sanh, ta không nhận thấy. Ðôi khi ta cảm nghe khuấy động và
đôi khi hài lòng. Lúc không có ham muốn ta mang máng nghe như có
một loại hài lòng, nhưng cùng lúc cũng cảm nghe mơ hồ, rối loạn.
Khi tâm ham muốn phát sanh có lẽ ta lại chứng nghiệm một loại hài
lòng và mơ hồ rối loạn khác. Nó lẫn lộn pha trộn như thế.
Hiểu Biết Mình Và Hiểu Người Khác
Ðức Phật dạy ta quán niệm thân của mình -- thân
quán niệm xứ -- như tóc, lông, móng tay móng chân, răng, da v.v..
toàn khắp châu thân. Hãy thử nhìn.
Chúng ta được dạy là phải trạch quán ngay nơi đây. Nếu
không trông thấy rõ ràng các phần ấy trong thân mình ắt ta không
thể hiểu biết nó ở người khác. Ta sẽ không thấy rõ ràng nơi người
khác mà cũng không thấy ở ta. Tuy nhiên, nếu thật sự ta hiểu biết
và nhìn thấy rõ ràng bản chất thiên nhiên của chính thân mình thì
mọi hoài nghi hay mọi điểm mơ hồ về người khác sẽ tan biến. Như
vậy là bởi vì thân và tâm (rùpa và nàma, sắc và
danh) của mọi người đều giống nhau.
Không cần phải đi quanh đi quẩn để quan sát thân của tất cả mọi
người trên thế gian vì chúng ta biết rằng cơ thể của ai
cũng giống như của mình, của mình cũng giống như bất luận của ai
khác. Nếu có được loại hiểu biết nầy
thì gánh nặng của chúng ta sẽ trở thành nhẹ. Nếu không
hiểu, dầu ta có làm gì, gánh nặng sẽ ngày càng nặng trĩu. Nếu muốn
hiểu biết tất cả mọi người mà ta phải đi cùng khắp thế
gian để quan sát thì quả thật là khó. Ta sẽ sớm nản lòng.
Giới Luật (Vinaya) của chúng ta cũng
dường thế ấy. Khi nhìn vào Giới Luật ta thấy rất khó. Phải giữ
chừng ấy giới và từng giới một. Phải nghiên cứu và học hỏi từng
giới một. Phải quán xét pháp hành của mình để giữ cho nó thích
nghi với từng giới. Chỉ nghĩ đến
chừng ấy thôi, "Ồ, quả thật không thể được! Bất khả hành!"
Chúng ta đọc và tìm hiểu ý
nghĩa từng chữ của bao nhiêu giới luật, và nếu chỉ theo dõi suy tư
của chúng ta khi học hỏi những từ ngữ ấy, chắc là ta sẽ quyết định
rằng những giới luật ấy quả thật đã vượt qua khỏi tầm mức
mà ta có thể hành. Ta không thể trang nghiêm thọ trì từng ấy giới
luật. Bất luận ai có thái độ tương tợ
đối với giới luật sẽ cảm nghĩ, "Nhiều giới quá! Không thể
giữ hết."
Kinh điển dạy ta phải tự quán chiếu, tìm hiểu
thái độ của mình đối với mỗi giới và nghiêm túc hành trì
tất cả, từng giới một. Chúng ta phải thông suốt các giới và giữ
gìn trong sạch tất cả. Ðiều nầy cũng giống như nói rằng muốn hiểu
biết mỗi người ta phải đi cùng
khắp và quan sát tất cả mọi người. Ðó là thái độ rất "nặng", quá
nặng nề. Và như vậy là vì ta chấp theo từ ngữ.
Nếu chúng ta đọc những kinh sách về
giới luật thì đó là phương cách mà ta phải đọc, từng chữ
một. Vài đạo sư dạy như vậy. Theo sát những gì kinh sách dạy. Học
theo lối nầy không thể hành.
Ðúng thật ra nếu hành giáo lý như vậy pháp hành
của chúng ta sẽ không tiến triển chút nào.
Trong thực tế, đức tin của ta sẽ tan
biến, niềm tin mà ta đặt vào Con Ðường sẽ không còn, bởi vì
chúng ta chưa hiểu biết. Khi trí tuệ phát sanh chúng ta sẽ hiểu
rằng mọi người trên khắp thế gian thật sự chỉ là một.
Tất cả đều cũng như chính ta, chúng
sanh nầy.
Như vậy, ta tự quán chiếu, khảo sát sắc và danh
của ta. Khi nhận thấy và hiểu biết bản chất thiên nhiên của danh
và sắc nơi chính mình ta sẽ nhận thức thân và tâm của tất cả mọi
người. Và như vậy, bằng phương cách nầy gánh nặng của pháp hành sẽ
suy giảm.
Ðức Phật đã chỉ giáo và ta đã lãnh hội, "Không
ai có thể làm điều ấy cho ta". Khi học hỏi và thấu hiểu bản chất
thiên nhiên của kiếp sinh tồn của mình ta sẽ hiểu biết bản chất
của tất cả mọi cuộc sống. Mọi người
thật sự đều như nhau. Tất cả chúng ta chỉ mang một "nhãn
hiệu" và là "sản phẩm" của một công ty -- chỉ cái dáng bề ngoài
có đôi chút khác biệt nhau. Chỉ thế thôi! Cũng như hai loại
thuốc "Bort-hai" và "Tum-jai". Cả hai
đều là thuốc an thần và chỉ có một loại công hiệu. Nhưng
thuốc nầy gọi là "Bort-hai" còn thuốc kia là "Tum-jai". Thật sự
không có gì khác biệt. (Trong một trường hợp khác Ngài Ajahn Chah
dạy rằng nếu ta biết gìn giữ chính cái tâm của mình thì đó là
nghiêm chỉnh trì giới).
Quý Sư sẽ thấy rằng lối nhìn vào sự vật như vậy
ngày càng trở nên dễ dàng hơn khi ta dần dần tập hợp chung lại.
Ta gọi đó là "dò dẫm
đường lối", và đó là phương cách mà ta bắt đầu pháp hành.
Ta sẽ trở thành quen thuộc và tinh thông hơn. Chúng ta tiếp tục
làm như vậy cho đến khi nhận thức. Và khi sự nhận thức nầy phát
sanh ta sẽ trông thấy rõ ràng thực tại.
Lý Thuyết Và Thực Hành
Vậy, hãy tiếp tục thực hành cho đến khi nhận
thức rõ ràng thực tại.
Sau một thời gian -- dài hay ngắn tùy khả năng
và khuynh hướng riêng của ta -- một loại kiến thức mới sẽ phát
sanh. Kiến thức nầy được gọi là
Trạch Pháp (Dhamma Vicaya, quán chiếu và phân biệt rành
mạch Giáo Pháp). Và đây là đường lối mà Thất Giác Chi khởi sanh
trong tâm (Bojjhanga, Thất Giác Chi, là bảy yếu tố của sự
giác ngộ). Trạch Pháp là một trong bảy yếu tố ấy. Sáu chi còn lại
là niệm, tấn, lạc, an, định và xả.
Nếu có học về Thất Giác Chi ắt ta hiểu những gì
kinh sách dạy, nhưng vẫn không thật sự thấy Thất Giác Chi. Thất
Giác Chi thật sự chỉ phát sanh trong tâm.
Do đó Ðức Phật ban truyền cho
chúng ta những Lời Dạy khác nhau. Tất cả các bậc Toàn Giác đều
giáo truyền con đường để vượt thoát ra khỏi khổ đau, và
Giáo Huấn của các Ngài được lưu
truyền đến nay là Giáo Huấn có tính cách lý thuyết. Lý
thuyết nầy vốn phát nguyên từ pháp hành, nhưng rồi trở thành những
lời dạy suông có tính cách từ chương, hay chỉ là những ngôn từ, những
chữ được ghi chép trong kinh sách.
Thất Giác Chi thật sự đã tan biến, bởi
vì ta không nhận thức nó bên trong chúng ta. Chúng ta không thấy
nó trong tâm mình. Nếu vạn nhất có phát sanh, nó sẽ phát sanh từ
công phu thực hành. Nếu nó phát sanh từ pháp hành thì đó là những
yếu tố của Giáo Pháp dẫn đến giác ngộ, và đó là những chỉ dẫn cho
thấy rằng đường lối thực hành của ta là đúng. Nếu hành không đúng
nó sẽ không khởi phát.
Nếu thực hành đúng, chúng ta sẽ thấy Giáo Pháp
(Dhamma). Vậy, hãy tiếp tục thực hành, dò dẫm dần dần con
đường và tiếp tục quán trạch. Không nên nghĩ rằng điều mà chúng ta
đang mong tìm có thể ở đâu khác hơn là ngay tại đây.
Một trong mấy đệ tử đầu tiên của Sư đã
theo học lớp Pàli tại một ngôi chùa có trường học, trước khi đến
đây. ở trường vị sư ấy không
thành công nên đến đây thử học phương
pháp nầy. Vị sư ấy đến đây,
tại Wat Pah Pong nầy, với ý định học pháp môn hành thiền nhằm phát
triển khả năng phiên dịch Pàli. Vị ấy có một loại nhận thức
về thiền như thế ấy. Rồi Sư giảng cho vị ấy về phương pháp của
chúng ta. Vị ấy hiểu sai hoàn toàn, nghĩ rằng đây là vấn đề chỉ
ngồi lại hành thiền rồi tự nhiên thấy rõ ràng mọi sự vật.
Nói đến kiến thức về Giáo Pháp thì cả
hai, nhà sư có pháp học và vị có pháp hành, đều dùng những từ ngữ
như nhau. Tuy nhiên, kiến thức thâu thập được do pháp học và kiến
thức do pháp hành không giống hệt như nhau. Hai kiến thức nầy có
thể hình như là một, nhưng trong đó có một là thâm diệu hơn, sâu
sắc hơn cái kia. Loại kiến thức phát xuất từ pháp hành
dẫn đến trạng thái quy hàng, từ bỏ.
Cho đến khi có sự quy hàng
trọn vẹn chúng ta vẫn kiên trì, nhẫn nại gia công quán niệm. Nếu
có tham hay sân hoặc có tâm ưa thích khởi sanh chúng ta không hờ
hững lờ hẳn, không màng biết đến nó. Chúng ta không gác bỏ qua một
bên mà giữ nó lại và quán trạch, xem từ đâu
nó đến và đến bằng cách nào.
Nếu trạng thái nầy đã có sẵn trong tâm, ta hãy quán chiếu,
xem nó hoạt động chống ta như thế nào. Chúng ta nhìn nó tận tường
và hiểu biết những khó khăn mà chính mình đã tự tạo cho mình, vì
lầm lạc tin tưởng và đi theo nó. Loại hiểu biết nầy không thể tìm
ở đâu khác hơn là trong cái tâm thanh tịnh của ta.
Cũng vì lẽ ấy mà người có pháp học và người có
pháp hành hiểu lầm nhau. Thông thường những vị chú trọng riêng
biệt về pháp học nói, "Các nhà sư đặc biệt chuyên về pháp môn hành
thiền chỉ có những ý kiến riêng tư.
Họ không nắm vững căn bản Giáo Lý". Trong thực tế cả hai --
pháp học và pháp hành -- chỉ là một.
Nếu nghĩ đến vấn đề nầy như ta nghĩ đến bề mặt và bề trái
của bàn tay ắt không khỏi nhằm lẫn. Nếu lật ngửa bàn tay ta thấy
hình như bề lưng biến đâu mất. Ðúng ra thì bề lưng bàn tay không
biến tan đâu mất mà chỉ bị che dấu phía dưới. Nói rằng không thấy
nó, không có nghĩa là nó biến mất mà chỉ có nghĩa là nó bị
che khuất đâu phía dưới. Ðến
lúc lật úp bàn tay trở xuống thì không thấy lòng bàn tay. Cũng
không phải lòng bàn tay biến mất mà nó chỉ bị che dấu phía dưới.
Phải ghi nhớ nằm lòng điểm
nầy khi nghĩ đến pháp hành.
Nếu nghĩ rằng nó đã "biến mất" ta gạt bỏ qua một bên để
đi học, hy vọng sẽ thâu hoạch thành quả tốt đẹp. Tuy nhiên,
dầu có học Giáo Pháp nhiều đến đâu ta
vẫn không thông suốt, vì không hiểu biết Chân Lý. Nếu ta
thông hiểu bản chất thật sự của Giáo Pháp nó sẽ trở thành sự buông
bỏ. Ðó là quy hàng, từ khước, dứt bỏ luyến ái (Upadàna,
Thủ), không còn đeo níu gì. Hoặc có còn bám níu đi nữa nó cũng
ngày càng suy giảm. Ðó là sự khác biệt giữa pháp học và pháp hành.
Khi nói về pháp học, ta có thể hiểu pháp nầy
như sau: mắt của chúng ta là đề tài
để học, tai của chúng ta là đề tài để học -- tất cả là đề tài để
học. Ta có thể hiểu hình sắc là thế nầy, thế kia, nhưng ta
vẫn bám níu vào hình sắc và không biết con đường
để thoát ra khỏi "sắc". Ta có thể phân biệt âm thanh, nhưng
vẫn còn vương víu trong "thinh". Hình sắc, âm thanh, hương, vị,
những cảm giác của thân và những cảm tưởng, tất cả đều là cạm bẫy,
những cái lưới để rập bắt tất cả chúng sanh.
Quán trạch -- tức quán chiếu và phân biệt sự
vật -- là phương cách thực hành Giáo Pháp của chúng ta. Khi có cảm
thọ phát khởi, ta dùng trí hiểu biết để nhận thức. Nếu thông suốt
pháp học ta sẽ lập tức hướng tâm về cảm thọ ấy và trông thấy điều
nầy hay điều nọ phát sanh như thế nào rồi trở thành cái gì
khác v.v... Nếu không học giáo lý
theo đường lối nầy ta chỉ còn trạng thái thiên nhiên của
tâm để làm công cụ khảo sát. Ðó là Giáo Pháp của ta.
Nếu có đủ trí tuệ ta sẽ có thể quán
chiếu trạng thái tâm thiên nhiên nầy của chúng ta và dùng
nó làm đề tài để học. Ðúng y là một. Cái tâm thiên nhiên của ta là
giáo lý. Ðức Phật dạy hãy nắm lấy bất luận tư tưởng hay cảm thọ
nào phát khởi và quán trạch. Hãy dùng thực tại của cái tâm thiên
nhiên của chúng ta làm pháp học. Chúng ta nương tựa vào thực tại
ấy.
Thiền Minh Sát
Nếu đức tin của ta vững mạnh thì dầu có
học giáo lý cùng không, điều ấy không quan trọng. Nếu cái tâm
thành tín của ta dẫn chúng ta đến trạng thái phát triển pháp hành,
dẫn đến tinh tấn chuyên cần và kiên trì nhẫn nại thì pháp học
không còn thiết yếu. Lấy chánh niệm làm nền tảng cho pháp hành,
chúng ta luôn luôn chú niệm trong bốn oai nghi, đi,
đứng, nằm, ngồi. Có chánh niệm ắt có trạng thái hiểu biết
rõ ràng phát sanh cùng lúc. Sự hiểu biết rõ ràng có thể phát sanh
nhanh chóng đến độ ta không thể phân
biệt tách rời khỏi niệm. Nhưng có chánh niệm là có hiểu
biết rõ ràng.
Khi tâm vững chắc không lay chuyển thì chánh
niệm phát sanh nhanh chóng, dễ dàng, và trí tuệ cũng phát sanh.
Mặc dầu vậy, đôi khi trí tuệ không đủ
năng lực hoặc không phát sanh đúng lúc. Chánh niệm và hiểu
biết rõ ràng mà thiếu trí tuệ ắt không đủ
khả năng kiểm soát tình hình. Thông thường, có chánh niệm
và hiểu biết rõ ràng làm nền tảng thì trí tuệ phát sanh để hỗ trợ.
Nhưng dầu sao, phải kiên trì gia công khai triển trí tuệ bằng pháp
hành thiền Minh Sát (Vipassanà). Như vậy có nghĩa là bất cứ
gì phát sanh trong tâm cũng có thể là đối tượng của sự chú niệm và
hiểu biết rõ ràng. Nhưng ta phải nhìn sự vật hợp đúng
theo ba đặc tướng Anicca, Dukkha, Anattà. Anicca,
Vô Thường, là căn bản. Dukkha, Khổ, hàm xúc đặc tính bất
toại nguyện. Anattà, Vô Ngã, nói lên rằng không có một tự
ngã, không có một thực thể cá biệt đơn thuần. Ta thấy rằng nó chỉ
giản dị là một cảm giác phát sanh, không phải tự ngã, không có
thực chất, và rồi tự nó sẽ biến tan. Chỉ có thế! Người còn mê
hoặc, người không có trí tuệ sẽ bỏ lỡ cơ hội. Người ấy không thể
xử dụng hoàn cảnh để tạo lợi ích cho mình.
Nếu trí tuệ hiện hữu ắt có chánh niệm và hiểu
biết rõ ràng, ngay tại đây, cùng với trí tuệ. Tuy nhiên vào thời
kỳ ban sơ nầy trí tuệ không sâu sắc toàn hảo. Vì lẽ ấy niệm và
hiểu biết rõ ràng không hội đủ khả
năng để chụp bắt tất cả mọi đối tượng làm đề tài, nhưng trí tuệ
vẫn có sẵn đó để hỗ trợ. Trí
tuệ sẽ nhận thấy đặc tính của chánh niệm là thế nào và loại
cảm giác phát sanh là gì. Hoặc nữa, trí tuệ sẽ nhận thấy một cách
tổng quát bất cứ chánh niệm hay cảm giác nào hiện hữu. Ðó là tất
cả Giáo Pháp.
Ðức Phật dùng thiền Minh Sát (Vipassanà)
làm căn bản. Ngài thấy rằng cả hai -- tâm chú niệm và sự hay biết
rõ ràng ấy -- đều không chắc chắn vững bền và ổn định. Bất cứ gì
bất ổn định mà ta muốn nó ổn định đều
là nguyên nhân làm cho ta đau khổ. Chúng ta muốn sự vật
phải như thế nào, vừa theo ý mình, nhưng phải đau khổ vì sự vật
không phải vậy. Ðó là ảnh hưởng của tâm ô nhiễm, tâm kém trí tuệ.
Trong khi thực hành chúng ta có khuynh hướng bị
dính mắc trong trạng thái muốn cho sự vật dễ dàng, vừa theo ý
mình. Không cần phải đi đâu xa để
nhận thức điểm nầy. Chỉ quay nhìn trở lại vào thân nầy! Nó
có thật sự giống như ta muốn không? Lúc thì ta muốn
nó như thế nầy, lúc kế đó ta lại muốn nó như thế kia, nhưng nó có
thật sự như ý ta muốn không? Bản chất của thân và tâm đúng
là vậy. Ðó chỉ giản dị là đường lối của nó.
Ðiểm nầy trong pháp hành của ta có thể bị sai
lầm. Thông thường ta vứt bỏ đi những
gì mình cảm nghe không thích. Bất luận gì không vừa lòng là ta
loại bỏ. Chúng ta không chịu dừng
chân lại để suy gẫm, xem đường lối mà ta thích hay không
thích sự vật có thật sự hợp tình hợp lý không. Ta chỉ nghĩ rằng
những gì mà ta cho rằng không vừa ý phải là sai quấy, và những gì
ta vừa lòng phải là đúng.
Chính tại nơi đây mà ái dục khởi sanh.
Khi chúng ta tiếp nhận ngoại cảnh xuyên qua tai, mắt, mũi, lưỡi,
thân, hay ý ắt có cảm giác ưa thích hay không ưa thích phát khởi.
Ðiều nầy cho thấy rằng tâm còn chứa chấp đầy luyến ái.
Do đó Ðức Phật truyền dạy Giáo
Huấn Vô Thường. Ngài dạy chúng ta quán chiếu sự vật. Nếu bám níu,
dính mắc vào cái gì không thường còn mà luôn luôn biến đổi thì lẽ
dĩ nhiên phải chịu đau khổ. Không có
lý do để ta muốn sự vật phải như thế nào tùy hợp sở thích
hay tùy theo ý không thích của mình. Không thể làm cho sự vật phải
là vậy. Chúng ta không có quyền năng
hay loại quyền uy để làm vậy. Dầu ta muốn như thế nào, mọi
sự vật đã có sẵn con đường thiên nhiên của nó. Ham muốn như thế ấy
không phải là đường lối dẫn thoát ra
khỏi đau khổ.
Ðến đây chúng ta nhận thấy rằng tâm si mê hiểu
biết theo một đường và tâm không bị mê hoặc hiểu theo một lối
khác. Khi tâm sáng suốt minh mẫn tiếp nhận một cảm giác thì liền
thấy rằng đó là cái gì không nên bám níu, cái gì không nên tự mình
đồng hóa với nó. Chính điểm nầy cho
thấy rằng tâm có trí tuệ. Nếu
không trí tuệ chúng ta chỉ đi theo trạng thái cuồng dại của mình.
Sự cuồng dại nầy là không nhận thấy vô thường, khổ, vô ngã. Những
gì ưa thích ta xem là tốt đẹp và chân chánh. Ðiều không hợp ý ta
xem là không tốt. Chúng ta không thể
đạt đến Giáo Pháp bằng lối nầy, trí tuệ không thể phát sanh.
Không thấy rõ điểm nầy ắt trí tuệ không thể phát sanh.
Ðức Phật củng cố vững chắc pháp hành thiền Minh
Sát và dùng pháp nầy để quán trạch tất cả những cảm tưởng khác
nhau. Bất luận gì phát sanh đến tâm, Ngài quán trạch như sau: Dầu
ta có ưa thích nó như thế nào nó vẫn bấp bênh, bất ổn định, không
chắc chắn. Nó là đau khổ, vì không ngừng phát sanh và hoại diệt,
không chịu ảnh hưởng của tâm mình. Tất cả những sự vật ấy không
phải là một chúng sanh, một tự ngã, không phải là của ta. Ðức Phật
dạy ta chỉ xem nó là vậy, nó như thế nào xem như thế ấy. Ðó là
nguyên tắc mà ta phải giữ vững trong khi hành thiền.
Bây giờ chúng ta thấu hiểu rằng ta không thể
buồn vui theo ý muốn. Vui hay buồn
chỉ phát sanh đến ta. Ðôi khi có lợi cho ta, lắm lúc không.
Không thấu hiểu đúng những trạng thái
vui hay buồn ấy ắt chúng ta không nhận định chân chánh.
Chúng ta sẽ chạy theo ái dục, chạy đi
xa, để theo đuổi những tham vọng của mình. Ðôi khi ta cảm
nghe hạnh phúc, lắm lúc buồn khổ, nhưng đó là tự nhiên. Có lúc ta
cảm nghe vừa lòng, khi khác thì phật ý. Cái gì thích ta cho là
tốt, điều gì không thích ta nói là xấu. Bằng cách làm như vậy ta
tách rời, xa dần, xa dần Giáo Pháp. Trong trường hợp nầy ta không
thấu hiểu hoặc không nhận thấy Giáo Pháp và do đó chúng ta mù mờ
rối loạn. Tham vọng tăng trưởng bởi
vì lúc bấy giờ tâm không còn gì khác hơn là si mê.
Ðó là đường lối mà chúng ta bàn thảo đến tâm.
Không cần phải đi đâu xa lìa khỏi ta
để tìm hiểu. Chỉ nhìn những trạng thái tâm vô thường của
mình. Chúng ta thấy rằng nó là bất toại nguyện và không phải là
một tự ngã trường tồn bất biến. Nếu phát triển pháp hành theo
chiều hướng nầy thì đó là thực hành thiền Minh Sát (Vipassanà).
Chúng ta nói rằng đó là nhận
thức những gì xảy diễn trong tâm, và chúng ta khai triển trí tuệ
bằng cách nầy.
Thiền Vắng Lặng
Pháp hành thiền Vắng Lặng của chúng ta như thế
nầy: Thí dụ chúng ta an trụ chú niệm vào hơi-thở-ra-thở-vào, xem
đó là căn bản hay phương tiện để kiểm
soát tâm. Bằng cách giữ tâm sâu sắc gắn bó theo dõi hơi
thở, tâm trở nên vững chắc, vắng lặng và không chao động. Phương
pháp thực hành làm cho tâm vắng lặng như vậy gọi là thiền Vắng
Lặng (Samatha có nghĩa là vắng lặng, thiền nầy cũng được
gọi là thiền Chỉ, thiền Ðịnh, đối với thiền Minh Sát, cũng gọi là
thiền Quán, hay thiền Tuệ).
Pháp hành nầy rất cần thiết và ta phải hành
loại thiền nầy thật nhiều bởi vì thông thường tâm ta chứa đầy
khuấy động. Tâm rất bấn loạn và mù mờ. Chúng ta không thể
nói từ bao nhiêu năm hay bao nhiêu kiếp sống nó đã là vậy. Nếu
ngồi lại và quán niệm, chúng ta sẽ thấy trong tâm có rất nhiều
những gì không đưa đến thanh bình,
an lạc, vắng lặng và rất nhiều những phần tử mang lại rối loạn,
mập mờ, không an tĩnh.
Vì lẽ ấy Ðức Phật khuyên dạy chúng ta nên tìm
một đề mục hành thiền (công án) thích hợp với khuynh hướng riêng
của mình, một đường lối thực hành thích nghi với bẩm tánh mình.
Thí dụ như quán tưởng tới lui những
phần trong thân như tóc, lông, móng tay móng chân, răng, da ...
Pháp hành nầy làm cho tâm trở nên rất an lạc.
Nếu niệm năm phần nầy mà tâm
trở nên vắng lặng thì đó là dấu hiệu cho thấy rằng công phu nầy
thích hợp với khuynh hướng tâm tánh của mình. Bất cứ gì mà ta thấy
thích nghi với khuynh hướng tâm tánh mình như vậy, hãy giữ lấy làm
đề mục hành thiền và xử dụng nó để khắc phục ô nhiễm.
Một thí dụ khác là suy niệm về hiện tượng chết.
Ðối với ai còn nhiều tham, sân, si mạnh mẽ và cảm nghe khó lòng tự
chế lấy mình thì suy niệm về cái chết của chính mình là một đề mục
hữu ích. Ta sẽ thấy rằng tất cả mọi
người đều phải chết, dầu giàu hay nghèo.
Người tốt hay người xấu đều chết.
Tất cả mọi người đều phải
chết! Phát triển pháp hành theo chiều hướng nầy sẽ làm khởi sanh
thái độ buông bỏ, không bám níu. Càng thường xuyên thực hành, thời
tọa thiền của chúng ta càng dễ dàng đem lại trạng thái vắng lặng.
Ðó là vì pháp hành nầy thích nghi với bẩm tánh của ta. Nếu khuynh
hướng tâm tánh của chúng ta không ưa thích pháp hành thiền Vắng
Lặng nầy, nó sẽ không dẫn đến thái độ
buông bỏ. Nếu đề mục hành
thiền nầy thật sự thích hợp, ta sẽ thấy thái độ buông bỏ phát sanh
đều đặn mà không gặp khó khăn lớn lao nào và chúng ta sẽ
thường xuyên suy tư đến nó.
Về điểm nầy chúng ta có thể thấy một thí dụ
trong đời sống hằng ngà y. Khi
quý vị cư sĩ Phật tử mang đến chùa những mâm vật thực để cúng
dường chư Tăng thì chúng tôi sớt vào bát tất cả các món,
mỗi thứ một ít. Khi độ xong mỗi thức
ăn chúng tôi có thể nói thức nào vừa miệng nhất. Ðây chỉ là
một thí dụ. Vật thực nào hợp với khẩu vị thì mình sẽ ăn, sẽ thấy
nó thích hợp với mình. Còn những món khác thì để qua một bên.
Pháp hành an trụ chú niệm vào hơi-thở-ra
thở-vào là một thí dụ điển hình cho loại đề mục thiền thích hợp
với tất cả chúng ta. Khi đi quanh đi
quẩn hành nhiều loại thiền khác nhau hình như ta cảm nghe
không thoải mái. Nhưng lúc vừa mới ngồi lại niệm hơi thở thì ta
cảm nghe dễ chịu. Ðiều nầy có thể nhận thấy một cách rõ ràng.
Không cần phải đi tìm ở đâu xa vời,
ta có thể xử dụng những gì ở ngay bên cạnh mình, và điều
nầy thuận lợi cho ta hơn. Chỉ theo dõi hơi thở.
Nó đi ra và trở vào, ra rồi
vào. Chúng ta theo dõi bám sát, liên tục không ngừng niệm hơi
thở-ra thở-vào như vậy trong một thời gian lâu.
Dần dần tâm ta lắng dịu và ổn định. Những sinh
hoạt tâm linh khác sẽ phát sanh nhưng ta cảm nghe còn xa lạ. Cũng
như hai người phân lìa, sống xa nhau trong một thời gian sẽ không
còn nghe gần gũi nữa. Chúng ta không còn cảm nghe có sự tiếp xúc
mạnh mẽ nữa, hoặc có thể không còn nghe tiếp xúc gì cả.
Khi ta quen thuộc với pháp hành niệm hơi thở nó
sẽ trở nên dễ dàng hơn. Nếu tiếp tục gia công thực hành chúng ta
sẽ thâu đạt thêm kinh nghiệm và hiểu biết tinh thông bản chất của
hơi thở. Ta sẽ hiểu biết hơi thở dài là như thế nào và hơi thở
ngắn là như thế nào.
Nhìn theo một lối ta có thể nói đến
thức ăn của hơi thở. Trong khi
ngồi hay trong khi đi chúng ta thở, khi ngủ chúng ta thở, khi thức
chúng ta thở. Nếu không thở ắt chúng ta chết.
Suy tư về điểm nầy cho thấy rằng ta
sống đây là chỉ nhờ vật thực. Nếu trong mười phút, một
tiếng, hay một ngày mà ta không ăn
những thức ăn hiểu theo lối hiểu thông thường, thì không
sao. Ðó là loại vật thực thô kịch.
Nhưng nếu không thở, dầu trong một thời gian ngắn đi nữa, ắt chúng
ta sẽ chết. Nếu trong năm hoặc
mười phút mà không thở ắt phải chết. Quý vị hãy thử xem.
Người hành pháp niệm hơi thở sẽ hiểu biết như
vậy. Kiến thức phát sanh từ pháp hành nầy quả thật tuyệt vời. Nếu
không quán niệm ắt chúng ta không thấy hơi thở là thức ăn, nhưng
trong thực tế lúc nào chúng ta cũng đang
"ăn" không khí vào, ra, vào, ra ... luôn luôn, không ngừng
nghỉ. Ta sẽ thấy một điều nữa là
càng quán niệm theo chiều hướng nầy pháp hành của chúng ta càng
mang lại nhiều lợi ích hơn và hơi thở ngày càng vi tế. Cũng có thể
hơi thở dừng lại. Ta cảm nghe hình như không còn thở.
Trong thực tế hơi thở đi thông qua lỗ
chân lông và được gọi là "hơi thở vi tế". Khi tâm hoàn toàn
vắng lặng thì thông thường hơi thở dừng lại theo lối nầy. Chúng ta
không cần phải giựt mình hay lo sợ. Nếu không còn hơi thở thì ta
phải làm gì? Chỉ hiểu biết nó là vậy! Hiểu biết rằng không có hơi
thở, thế thôi! Ðây là pháp hành chân chánh.
Nơi đây chúng ta đang đề cập đến đường lối hà nh
thiền samatha, pháp hành nhằm phát triển tâm vắng lặng.
Nếu đề mục hành thiền thích nghi với
ta, nó sẽ dẫn đến loại chứng nghiệm nầy. Ðây chỉ là giai
đoạn sơ khởi, nhưng bấy nhiêu đó trong pháp hành đủ
dẫn dắt ta đi suốt con đường, hay ít ra cũng đưa ta đến mức độ có
thể nhận thấy rõ ràng và tiếp tục gia công trong niềm tin
vững chắc. Nếu tiếp tục quán niệm
theo đường lối nầy ta sẽ càng tinh tấn hơn. Cũng như nước
trong lu. Càng siêng năng châm nước, giữ cho lu lúc nào cũng
đầy thì những côn trùng sống trong đó
như lăng quăng v.v.. sẽ không chết vì bị khô cạn. Chúng ta
gia công giữ cho pháp hành hằng ngày luôn luôn viên mãn cũng dường
thế ấy. Tất cả đều trở về pháp hành.
Chúng ta sẽ cảm nghe thoải mái và an bình. Trạng
thái an lạc nầy phát sanh từ nhất điểm tâm, hay tâm niệm an trụ
vào một điểm duy nhất.
Tuy nhiên, tâm nhất điểm nầy có thể rất phiền
phức, bởi vì chúng ta không muốn bị những trạng thái tâm khác (tức
những tâm sở khác) phá rầy. Trong thực tế, các tâm sở khác sẽ khởi
phát, và nếu ta duyên theo đó thì chính nó là tâm nhất điểm.
Cũng như ta nhìn thấy những người khác nhau
trước mắt, đàn ông có, đàn bà có. Nhưng cảm giác của ta khi thấy
họ không giống như cảm giác mà ta có, khi nhìn cha và mẹ ta. Trong
thực tế tất cả những người đàn ông
đều là đàn ông giống như cha ta, và tất cả các bà đều là
đàn bà như mẹ ta. Vậy mà khi nhìn họ ta không có cảm giác như khi
nhìn cha và mẹ ta.
Ta cảm nghe rằng cha và mẹ ta quan trọng hơn.
Ðối với ta, cha mẹ ta có giá trị hơn.
Trạng thái nhất điểm tâm của ta cũng vậy.
Phải giữ thái độ đối với nó như đối
với cha và mẹ ta. Tất cả những sinh hoạt tâm linh khác
ngoài đề mục mà phát sanh thì chúng ta vẫn lưu tâm đến,
cũng như ta lưu tâm đến các người đàn ông và đàn bà khác
nhau, nói một cách tổng quát. Ta vẫn không ngừng nhìn thấy họ,
nhưng chỉ ghi nhận sự có mặt của họ chớ không đặt họ ngang hàng,
không cho họ có giá trị xứng đáng như cha và mẹ ta.
Tháo Gỡ Mối Gút
Khi pháp hành thiền Samatha
tiến đạt đến mức độ vắng lặng,
tâm sẽ trở nên sáng suốt và tỏ rạng. Những cảm xúc khác nhau mà
thường phát sanh giờ đây cũng thưa thớt, ít dần. An lạc thanh bình
và hạnh phúc dồi dào sẽ đến với ta. Có thể ta bám níu vào và luyến
ái trạng thái hỷ lạc an vui ấy. Phải quán sát và suy gẫm rằng
"hạnh phúc" ấy không bền vững, và phải quán tưởng rằng tình trạng
"vô hạnh phúc" cũng không bền vững trường tồn mà vô thường, luôn
luôn biến đổi. Ta sẽ thấu hiểu rằng
tất cả những cảm giác đều phù du tạm bợ nhất thời, và không
nên bám vào nó. Nhận thức sự vật như vậy vì có trí tuệ. Ta sẽ hiểu
biết rằng sự vật là vậy, đúng theo bản chất thiên nhiên của nó.
Hiểu như vậy giống như ta nắm được đầu dây mối
nhợ đã thắt chặt cái gút. Nếu
ta kéo sợi nhợ theo đúng chiều của nó cái gút sẽ được nới lỏng
ra và bắt đầu mở dần. Nó sẽ không còn siết chặt nữa. Làm vậy giống
như hiểu biết rằng nó không phải luôn luôn là vậy. Trước kia ta
ngỡ rằng sự vật như thế nào thì luôn luôn nó phải như thế ấy, và
vì hiểu biết sai lầm như thế ấy càng ngày ta càng siết chặt cái
gút. Siết chặt cái gút là đau khổ.
Sống như thế ấy rất căng thẳng.
Do đó ta dần dần nới lỏng cái gút và
ngơi nghỉ. Tại sao nới lỏng cái gút? Bởi vì nó siết chặt. Nếu
không bám níu hẳn ta có thể nới lỏng. Nó không thường còn, và luôn
luôn phải như vậy. Hãy dựa trên Giáo Lý Vô Thường và xem đó là nền
tảng. Cả hai trạng thái -- hạnh phúc và bất hạnh -- đều không
thường còn. Ta không thể ỷ lại nơi cái gì luôn luôn biến đổi.
Tuyệt đối không có gì thường
còn trên thế gian. Với loại hiểu biết nầy ta dần dần chấm dứt
những cơn buồn vui và những cảm xúc phát sanh trong tâm.
Hiểu biết lầm lạc sẽ ảnh hưởng ngược
chiều, cũng với mức độ ấy, và càng tăng
trưởng những khuấy động tâm linh. Ý nghĩa của sự tháo gỡ
mối gút là vậy. Nó sẽ tiếp tục nới lỏng ra và dần dần ta sẽ buông
xả, diệt trừ luyến ái tận gốc rễ.
Khi tiến đến trình độ thấy vô thường, khổ, vô
ngã bên trong mình, trong thân và tâm nầy, trong thế gian
nầy, một loại nhàm chán sẽ khởi phát đến ta. Ðây không phải là
trạng thái nhàm chán mà ta thường chứng nghiệm trong đời sống hằng
ngày, không phải là chán chê, không muốn biết, không muốn thấy
hoặc nói năng điều gì. Cũng
không phải là nhàm chán không muốn tiếp xúc, gần gũi hay liên lạc
với bất cứ ai. Như thế ấy không phải thật sự là nhàm chán bởi vì
còn có sự bám níu, còn luyến ái mà chưa buông bỏ và chưa sáng suốt
hiểu biết. Chúng ta vẫn còn ham muốn và phật lòng và chúng ta còn
bám níu vào sự vật, những sự vật làm cho ta đau khổ.
Loại nhàm chán mà Ðức Phật đề
cập đến là một trạng thái tâm không có tham, sân và si. Ðây
là nhàm chán bởi vì nhìn thấy mọi sự
vật đều vô thường. Khi thọ hỷ
phát sanh, ta nhận định ngay là nó không tồn tại lâu dài.
Ðó là loại nhàm chán mà ta sẽ chứng nghiệm.
Gọi đó là nibbida, chán nản.
Nó có nghĩa là cách xa tham dục và khát vọng. Ta không thấy có gì
đáng được ham muốn.
Dầu sự vật có đúng
theo ý thích hay ý không thích của ta
không, điều đó không quan trọng.
Chúng ta không tự đồng hóa với sự
vật. Ta không cho nó một giá trị nào.
Thực hành như vậy ta không để
cho sự vật có lý do gây khó khăn.
Ta đã có thấy đau khổ và đã
thấy rằng tự đồng hóa mình với những cơn buồn vui không thể tạo
hạnh phúc thật sự. Nó làm cho ta bám níu vào hạnh phúc hay bất
hạnh, vào ưa thích hay ghét bỏ, vốn tự nó là nguyên nhân sanh đau
khổ. Khi vẫn còn bám níu như vậy chúng ta không thể có tâm
buông xả, hay thái độ bình thản đối với sự vật.
Có những trạng thái tâm được ta ưa
thích, vài trạng thái khác thì ta không ưa. Cả hai, hạnh
phúc và không hạnh phúc, ưa và ghét, đều là nguyên nhân sanh đau
khổ. Chính loại bám níu nầy là nguyên nhân gây
đau khổ. Ðức Phật dạy rằng bất luận gì tạo đau khổ tự nó là
bất toại nguyện.
Tứ Diệu Ðế
Như vậy ta nhận thức rằng Giáo Huấn của Ðức
Phật là hiểu biết đau khổ và nguyên nhân sanh khổ. Thêm nữa là
hiểu biết trạng thái giải thoát vượt ra khỏi đau khổ và đường lối
thực hành khả dĩ dẫn đến giải thoát. Ngài chỉ dạy ta bốn điều ấy.
Khi thấu triệt bốn pháp nầy chúng ta
sẽ có thể nhận chân đau khổ khi nó phát sanh. Ta cũng sẽ
thấu triệt rằng có nguyên nhân tạo đau khổ.
Cái khổ hẳn không phải từ đâu rơi xuống!
Khi lòng muốn thoát khổ ta sẽ có thể diệt trừ nguyên nhân sanh ra
nó.
Tại sao chúng ta thọ khổ, cái cảm giác bất toại
nguyện nầy?
Ta sẽ thấy rằng bởi vì chúng ta bám níu vào
những ưa thích và những ghét bỏ. Chúng ta sẽ thấu hiểu rằng chính
những hành động của ta làm cho ta đau khổ.
Chúng ta đau khổ vì chúng ta
gán cho sự vật một giá trị. Do vậy ta
nói thấu hiểu đau khổ, thấu hiểu nguyên nhân sanh khổ, thấu
hiểu sự thoát khổ và thấu hiểu Con Ðường dẫn đến thoát khổ.
Khi thấu hiểu đau khổ ta nỗ lực gia công
tháo gỡ cái mối gút. Nhưng phải biết chắc chắn chiều hướng nào là
đúng để kéo đầu mối dây. Có
nghĩa là phải biết bản chất thật sự của sự vật là thế nào.
Chừng ấy luyến ái sẽ được tận diệt.
Ðó là pháp hành của chúng ta nhằm chấm dứt đau khổ.
Thấu hiểu đau khổ, thấu hiểu nguyên
nhân sanh khổ, thấu hiểu trạng thái thoát khổ và thấu hiểu Con
Ðường đưa vượt ra khỏi mọi đau khổ.
Ðó là Magga (Con Ðường). Con
đường ấy là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Khi
có chánh kiến, hiểu biết chân chánh các pháp ấy, ắt chúng ta có
Con Ðường. Những pháp ấy có khả năng
chấm dứt đau khổ. Nó dẫn dắt
chúng ta đến Giới, Ðịnh, Tuệ (Sìla, Samàdhi, Pannà).
Phải thông suốt bốn pháp nầy một cách rõ ràng.
Ta phải muốn thấu triệt. Phải muốn nhìn thấy các pháp ấy tận mắt,
thấy đúng thực tướng của nó. Khi thấy
được tận tường bốn pháp trên ta gọi đó là Sacca Dhamma, Giáo Pháp
đúng Chân Lý, hay Diệu Ðế.
Dầu ta có nhìn vào trong, nhìn về phía trước,
hoặc nhìn bên phải hay bên trái, tất cả những gì ta thấy là Diệu
Ðế, Sacca Dhamma. Ta chỉ giản
dị thấy tất cả sự vật đúng như nó là vậy. Ðối với những ai
đã tiến đạt đến Dhamma,
Giáo Pháp, đã thấu triệt Giáo Pháp, dầu đi nơi nào, tất cả
mọi sự vật sẽ là Giáo Pháp.
-ooOoo-
[08]
Hãy Khởi Hành!
(Dưới đây l à một thời Pháp sống
động do Ngài Ajahn Chah thuyết
giảng bằng tiếng Lào tại Wat Pah Pong, cho một nhóm tăng
sĩ vừa mới xuất gia tỳ khưu và sa di, vào ngày Nhập Hạ,
tháng 7 năm 1978)
Thở vào .. thở ra .. chỉ làm như vậy. Dầu có ai
"đứng dộng đầu xuống đất và
chổng cẳng lên trời" thì đó là
chuyện của họ. Quý Sư chớ nên làm phiền cái
đầu của mình. Chỉ gom tâm vào
hơi-thở-vào và hơi-thở-ra, chỉ hay biết hơi thở của mình. Bấy
nhiêu đó đủ rồi, không có gì
khác. Chỉ hay biết luồng hơi thở tuôn vào và trôi chảy ra. Hoặc ta
có thể nói thầm, "BUD" khi thở vào, và "DHO" khi thở ra. "BUD-DHO,
BUD-DHO .." Hãy lấy đó làm
đề mục, tức lấy hơi thở làm
đối tượng của sự chú tâm hay biết của
ta. Hiện thời chỉ làm vậy, khi luồng hơi thở trôi vào, hay
biết; khi thở ra, hay biết. Chừng ấy tâm sẽ an lạc, không bị khuấy
động, không phóng đi đầu nầy đầu kia.
Chỉ có hơi thở vào và hơi thở ra liên tục nối tiếp không
gián đoạn.
Vào thời kỳ sơ cơ, chỉ cứ giản dị làm như vậy,
không có gì lạ thường. Dầu ngồi lâu thế nào, nếu cảm nghe "sa
bai" (một danh từ Thái hàm ý thoải mái, có tiện nghi, bằng
lòng, nghịch nghĩa với bực bội, khó chịu) hay an lạc, ta sẽ ghi
nhận hay biết đúng như thế. Nếu cố
giữ như vậy hơi thở sẽ trở nên thoải mái nhẹ nhàng, tâm
khoan khoái dễ chịu -- bấy nhiêu đó
cũng xứng đáng với công phu tu tập rồi! Hãy tiếp tục thực
hành, để cho hơi thở diễn tiến một
cách tự nhiên, thong thả. Hãy ngồi "sa bai", vững vàng chăm
chú hành thiền, không lao chao, không dã dượi hoặc gật gù.
Hãy để cho mọi sự việc trôi chảy mà
không có sự cố gắng. Lúc bấy giờ ta cảm nghe an lạc! Rồi ta sực
nhớ, "Quả thật tuyệt vời! Ðó là gì?" Ta không thể ngưng suy tư về
trạng thái an lạc vừa chứng nghiệm ấy.
Lúc bấy giờ ta tiếp tục giữ tâm chú niệm giác
tỉnh (sati sampajañña, niệm và hay biết rõ ràng), tự biết
mình. Bất luận nói gì, làm gì, đi
đây, đi kia, bất luận đi trì bình, rửa bát hay thọ thực, ta
luôn luôn hay biết mình đang làm
gì. Niệm, sati, và vững vàng giữ chắc tâm niệm. Chỉ tiếp tục làm
như vậy! Lúc phải làm gì, hãy làm với chánh niệm không lay chuyển.
Về pháp đi kinh h ành (thiền hành), hãy
chọn một lối đi nằm khoảng giữa hai
cội cây cách nhau độ bảy hoặc tám sải tay. Thiền hành cũng
như thiền tọa. Ta gom tâm quyết định
bây giờ sẽ hành thiền rồi lắng tâm an trụ, làm cho tâm niệm
và hay biết rõ ràng đủ mạnh để phát
sanh. Về các phương pháp, vài người bắt
đầu buổi tọa thiền bằng pháp rải tâm
Từ (Mettā) đến tất cả chúng sanh, một việc làm
để được bảo vệ. Ta cũng cứ làm
như vậy, cái tâm sơ cơ rụt rè cần phải nương nhờ theo nhiều phương
pháp khác nhau.
Hãy bắt đầu bước
chân mặt tới và nói thầm, "BUD" rồi bước chân trái niệm
thầm, "DHO", và cứ thế niệm thầm "BUD-DHO, BUD-DHO".. "
thong thả đưa chân tới, hết chân nầy đến chân kia. Hãy cột
tâm ngay vào chân mình trọn thời gian di chuyển, từ
đầu -- khi bắt đầu dở chân lên
-- đến cuối, khi đặt chân xuống đất.
Nếu tâm phóng, hãy dừng lại
đứng yên một cách an lạc, rồi tiếp tục bước trở lại. Hay
biết đoạn đầu, đoạn giữa và
đoạn cuối của con đường kinh
hành và cùng thế ấy, hay biết khi đi
trở lại. Luôn luôn hay biết ta đang làm gì, không gián
đoạn.
Ðó là phương pháp. Quý vị hãy thiền hành như
vậy. Vài người sẽ nói, "Cứ đi tới, đi
lui như vậy mãi thì quả là điên
khùng!" Nhưng quý vị biết không, pháp thiền hành như vậy bao gồm
rất nhiều trí tuệ. Ði lui, đi tới.
Nếu mệt mỏi, ta dừng lại, hướng sự chú tâm trở vào và lắng
tâm an trụ bằng cách ghi nhận hay biết rõ ràng hơi thở.
Rồi quý vị lại hay biết thêm một
điều nữa: oai nghi của mình,
tức thế đứng, thế đi, thế ngồi, thế
nằm của mình. Chúng ta luôn luôn thay
đổi oai nghi. Chúng ta không thể chỉ
ngồi, chỉ đứng, hay chỉ nằm mãi. Trong cuộc sống hằng ngày
chúng ta luôn luôn ở một trong các oai nghi ấy. Như vậy ta phải
phát triển tâm niệm ghi nhận và hay biết rõ ràng các oai nghi của
mình, từng oai nghi, và xử dụng nó một cách hữu hiệu.
Hãy tiến hành! Làm
đi! Không phải dễ dàng đâu.
Nhưng một cách giản dị, như ta lấy một ly nước đặt nó ở đây trong
hai phút, rồi dở lên đặt ở chỗ
kia trong hai phút. Mỗi hai phút là dời nó
đi một lần, chỗ nầy sang chỗ kia.
Ðây chỉ là một thí dụ, nhưng hãy làm với chánh niệm. Theo
dõi hơi thở cũng giống như vậy. Quý vị thử làm như vậy cho
đến khi hoài nghi, hay
đau khổ. Ðó là lúc mà trí tuệ
khởi phát. Vài người sẽ nói, "Vậy đó
sao? Di chuyển tới lui mãi một ly nước, quả thật là khùng,
vô ích! Bộ điên rồi sao?"
Không sao, chớ quan tâm đến điều g ì
người ta nói, chỉ cứ làm. Và chớ quên, hai phút chớ không phải năm.
Gom tâm an trụ, chỉ làm thế thôi.
Theo dõi hơi thở cũng cùng thế ấy. Hãy ngồi lại
trong tư thế thăng bằng, hai chân
tréo, chân mặt đặt trên chân trái. Thở vào cho
đến khi nghe hơi thở ở bụng, và
thở ra cho đến khi hơi thở trong lồng
phổi ra hết. Thở vào cho đầy,
rồi để tự nhiên, không nên cố gắng
điều hòa hơi thở. Dầu hơi dài hay ngắn cũng
được, đủ tốt rồi. Hãy ngồi lại
và trông chừng, theo dõi hơi thở ra và hơi thở vào tự nhiên. Chú
tâm vào hơi thở, chớ để nó lẫn thoát.
Nếu thấy mất, ngưng lại! Nó đâu rồi? Hãy tìm ra và
đưa nó trở lại.
Sớm hay muộn ta sẽ
gặt hái một điều gì tốt. Cứ gia công thực hành. Không nên
nghĩ rằng mình không thể làm được.
Cũng như gieo mạ trên cánh
đồng. Cứ rải tung hột giống xuống đất như bỏ đi. Những hột giống
sẽ sớm nở mộng, mạ non sẽ mọc lên, trở thành cây
lúa, trổ bông, ra hột no đầy, và rồi
đây ta sẽ có thể ăn "khao
mow" (cớm dẹp) những hột cơm ngon lành thơm phức. Nó là vậy.
Quý vị biết không, đó là thiên
nhiên.
Ở đây cũng vậy.
Chỉ ngồi lại. Ðôi khi quý vị có thể nghĩ, "Ta ngồi nhìn hơi
thở để làm gì
đây? Thì nó vào rồi nó ra tự
nó chớ cần gì ta phải ngớ ngẩn nhìn!" Ðó chỉ là cái tâm ngoan cố
của ta, luôn luôn tìm bắt con bò chét. Hãy quên nó
đi! Chỉ nỗ lực hành thiền cho
đến khi cảm nghe an lạc. Bởi vì
một khi tĩnh lặng, hơi thở sẽ trở nên tế nhị,
thân thoải mái, tâm thơ thới, mọi sự việc đều tốt đẹp. Hãy
tiếp tục tiến hành cho đến khi có thể
ta ngồi đây, vẫn sống, mà không còn hơi thở ra vào. Chớ nên
kinh sợ! Ðừng bỏ cuộc vì nghĩ rằng ta
đã ngưng thở! Ðó là trạng thái an lạc thanh bình. Không cần
phải làm gì khác, chỉ ngồi như thường. Ðôi khi hình như ta không
còn thở nữa, nhưng thật sự ta còn thở. Nhiều hiện tượng tương tợ
có thể xảy diễn, nhưng không sao. Chỉ chú tâm hay biết tất cả mà
không lo sợ gì. Cứ tiếp tục hành thiền, và hành thật nhiều, hành
thường xuyên! Ngay sau khi thọ thực hãy cổi y máng lên và bắt
đầu đi, "BUD-DHO, BUD-DHO .."
Hãy thiền hành cho đến khi đầu gối
không còn chịu nỗi, chỉ tiếp tục
đi! Ðến khi quá mệt mỏi mới
ngồi lại. Quý Sư hãy hành thật nhiều. Gia công hành như vậy
để thông hiểu, để đạt đến nó, để cho
nó phát sanh, để thấu triệt tận tường nó là thế nào. Không
phải chỉ đi trong chốc lát: chùng,
chọc, chùng, chọc .. nghĩ đến điều
nầy việc nọ rồi vào tịnh thất nằm xuống, thả hồn bay theo
tiếng ngáy, ngon giấc! Bằng cách đó
quý vị không thấy gì hết. Nếu lười biếng thì biết
đến chừng nào mới xong? Nếu
nghe mệt mỏi rồi dể duôi buông lung không chuyên cần thì
đi được bao xa? Quý vị hãy tập
trung nghị lực, tinh tấn gia công vượt qua tình trạng lười biếng.
Không phải nói, "an lạc, an lạc" và ngồi xuống, không thấy an lạc
đâu trong tức khắc, rồi vội vã
bỏ đi bởi vì không thấy an lạc
ở đâu.
Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Cũng như nói
rằng, "ồ, làm ruộng thì có gì khó, cứ trồng xuống rồi lấy lửa mà
nấu cơm ăn". Nhưng hãy ra
đồng trồng thử xem. Không biết phải
điều khiển trâu bò như thế nào, không biết xử dụng cày bừa
ra sao! Trong thực tế, nói và làm khác biệt nhau rất nhiều. Nó là
vậy, quý vị biết không.
Tất cả quý vị đều muốn t ìm trạng thái an
lạc thanh bình. Nó ở đó. Nhưng quý vị
chưa biết gì đâu. Dầu có hỏi
ai quý vị cũng không biết. Chỉ hay biết hơi thở của mình,
hơi thở vào và hơi thở ra, "BUD-DHO, BUD-DHO .." Ðủ rồi. Chỉ làm
bấy nhiêu. Cũng không cần suy tư nhiều về nó. Trong giờ phúr hiện
tại chỉ hay biết cái nầy. Hãy học
điều nầy trong hiện tại. Bất luận gì xảy
đến, được rồi, chỉ tiếp tục hành
như vậy, rồi quý vị sẽ thấu hiểu tất cả về nó. Hành và thấy! Nếu
chỉ ngồi như vậy và hay biết rõ ràng những gì xảy diễn thì thật sự
là được. Khi tâm trở nên an
lạc, nó biết. Quý vị có thể ngồi đó
suốt đêm đến sáng, mà
không cảm nghe mình đang ngồi -- hoan
hỷ thỏa thích. Không thể giảng giải nó là gì, nó chỉ giống
như thỏa thích.
Khi đến tr ình
độ nầy có thể ta phát sanh ý muốn
thuyết những thời Pháp "cao siêu", nhưng hãy thận trọng coi
chừng, chớ nên để bị "kiết lỵ
ở mồm". Giáo Pháp cứ tuôn trào, ta cứ thuyết giảng không ngừng,
làm cho thiên hạ điên
đầu với những lời dạy thao thao bất
tuyệt. Cũng như thầy sa-di lớn tuổi tên Sang ở
đây. Hôm nọ trời vừa sẩm tối,
vào lúc mọi người ngồi thiền, Sư nghe có tiếng ai nói gì trong khu
rừng tre gần đó, tiếng nói không
ngớt, "Yo... Yo... Yo..." Sư ngồi lại và lắng nghe,
bụng nghĩ rằng ai đó đang dạy ai
khác. Ai mà nói hoài vậy? Tiếng nói không dừng mà chỉ tiếp
tục líu lo lẩm nhẩm. Rồi Sư đi lấy cây đèn bin và trở lại
đám tre. Rõ ràng là thầy Sa-di
Sang, ngồi dưới lùm tre, bên ngọn đèn
leo lét, hai chân tréo lại, miệng không ngớt lẩm bẩm, thuyết giảng
một thời Pháp cho đêm tối! Nầy
Thầy Sa-di Sang, Thầy có nhép miệng không? -- Ồ,
Bạch Sư, con không thể ngậm miệng lại được. Con không thể giữ môi
khép lại được." Ông ta nói, "Khi
ngồi xuống, con phải dạy .. Khi đi, con phải dạy .. Con phải dạy
.. không biết đến đâu mới dừng". Quả thật là
điên khùng! Ðó!
vậy đó, nó là vậy. Ðó là việc có thể xảy ra, quý vị biết
không.
Tuy nhiên, hãy bám sát pháp hành. Không nên chỉ
hành tùy cơn hứng. Khi lười biếng, cứ hành! Lúc siêng, cứ hành!
Hành thiền khi ngồi, hành thiền lúc
đi, và chí đến khi nằm, cũng
cứ theo dõi hơi thở. Trước khi ngủ tự nhủ, "Ta không dể
duôi buông lung lợi dưỡng trong giấc ngủ". Vừa khi tỉnh giấc, tiếp
tục hành thiền. Khi ăn, chúng ta ghi
nhớ: "Ta không ăn thức ăn nầy
vì lòng thèm muốn mà chỉ xem
đó là một món thuốc bổ, một duợc liệu
để nuôi sống ta trong ngày và
đêm nay, nó sẽ giúp ta đủ sức
để tiếp tục hành thiền". Trước
khi ngủ ta tự dạy ta .. trước khi ăn, ta tự dạy ta, lúc nào
cũng vậy. Ðứng, hay biết. Ngồi, hay biết. Nằm, hay biết. Trong tất
cả mọi việc làm đều hay biết như
vậy! Khi nằm xuống, hãy nằm nghiêng bên phải và gom tâm an trụ vào
hơi thở, "BUD-DHO, BUD-DHO .." cho
đến khi an giấc. Vừa lúc tỉnh dậy, tiếp tục, "BUD-DHO,
BUD-DHO ..", như ta không bỏ sót hơi thở nào! Chừng ấy trạng thái
an lạc thanh bình sẽ phát sanh .. luôn luôn giác tỉnh.
Chớ nên xem người khác hành như thế nào. Không
thể làm như vậy. Về pháp hành thiền, hãy ngồi ngay ngắn và giữ
thân thăng bằng, không nên để
đầu nghiêng phía trước hay ngã
ra sau, mà giữ thăng bằng, cũng như
pho tượng Phật. Xem kìa! Ngài ngồi vững chắc, ngay thẳng,
và sáng tỏ rạng ngời." Nếu nghe đau
nhức và muốn đổi oai nghi, hãy
cố gắng chịu đựng đến mức cùng
cực rồi sẽ đổi. Quý vị có thể nói,
"Sao vậy? Con không còn chịu
đựng được nữa!" Nhưng hãy nhẫn nại chờ một chút, trước khi
chuyển mình. Hãy chịu đựng đến cùng,
rồi cố gắng thêm nữa! Dầu có đau nhức
thé nào, vẫn cứ tiến hành và cố gắng chịu
đựng. Ðến khi, vì
đau nhức quá không thể gom tâm để
niệm "BUD-DHO .." quý vị hãy lấy cảm giác
đau nhức ấy làm
đề mục và giác tỉnh chú niệm,
"Ðau, Ðau, Ðau .." thay vì niệm, "BUD-DHO .." Làm như thế cho
đến khi hết nghe đau nhức rồi nhìn
xem điều gì xảy diễn sau
đó. Ðức Phật dạy rằng cái
đau tự nó phát sanh, rồi tự nó chấm
dứt. Hãy để cho nó tự nhiên
tan biến, không nên bỏ cuộc! Có thể
cơn đau nhức làm cho quý vị đổ
mồ hôi, từng hột to như hột bắp, lăn tròn xuống theo lưng,
nhưng nếu có thể vượt qua khỏi cảm giác khó chịu ấy một lần quý vị
sẽ biết rõ nó là thế nào. Ðiều nầy chỉ
đến dần dần, không nên cố gắng
quá sức và đi quá xa. Chỉ đều đặn
tiến hành từ từ.
Trong khi thọ thực hãy hay biết .. nhai, nuốt
v.v.. và hiểu biết rằng sau cùng thức
ăn sẽ đi đến đâu. Vật thực nào thích hợp hoặc không thích
hợp với cơ thể của mình. Quý vị sẽ biết nó
đi về đâu. Hãy tinh luyện
trong nghệ thuật ăn, làm cho
nó trở nên tinh vi: ăn và biết
lượng định, khi còn năm
miếng nữa đủ no thì hãy dừng! Uống nước vào là
đủ. Hãy thữ làm và xem mình có
thể làm vậy được không. Phần đông
người ta không làm vậy. Họ ăn
cho đến no bụng rồi dồn thêm năm
miếng nữa! Nhưng quý vị biết không, thọ thực như vậy là
không đúng. Ðức Phật dạy rằng
chỉ ăn với chánh niệm và hiểu
biết rằng hiện thời mình chưa đủ no,
nhưng ăn thêm năm miếng nữa thì
sẽ no, như vậy hãy dừng lại, không ăn
nữa và uống nước vào ắt đầy
bụng. Làm như thế dầu đi kinh
hành hoặc ngồi thiền, quý vị cũng không nghe nặng nề và
thời hành thiền tự nhiên tốt hơn. Nhưng thông thường người ta
không muốn làm vậy. Nếu không thật sự muốn tự rèn luyện ắt không
thể làm được mà chỉ
ăn cho đến khi quá đầy bụng rồi dồn
thêm vào năm miếng nữa.
Bản chất ô nhiễm và tham
ăn của con người là vậy, còn
những gì Ðức Phật dạy thì hướng về chiều ngược lại. Chúng ta phải
tự quan sát mình.
Khi ngủ cũng vậy, ngủ với chánh niệm và giác
tỉnh, tùy theo khả năng của mình.
Ðôi khi ta không được ngủ đúng
giờ mà sớm hoặc trễ hơn thường. Không thành vấn
đề. Riêng Sư làm thế nầy. Dầu
đi ngủ sớm hay ngủ trễ việc đó không
quan trọng, khi tỉnh giấc thì Sư dậy liền. Không nên quan
tâm đến nó một cách quá đáng. Hãy
cắt đứt ngay tại đó. Nếu tỉnh giấc mà
còn dật dờ buồn ngủ, hãy ngồi dậy ngay! Ðứng dậy và
đi rửa mặt rồi bắt đầu thiền hành,
cứ đi ngay! Ðó là phương cách
mà ta phải rèn luyện. Quý vị hãy làm như vậy!
Ðó là những gì phải làm. Tuy nhiên, quý vị sẽ
không hiểu biết bằng cách chỉ lắng tai nghe người khác dạy. Chỉ có
thể hiểu biết bằng cách thật sự dấn thân vào công trình thực hành.
Vậy, hãy dũng mãnh tiến hành. Ðây là giai
đoạn đầu tiên trong pháp luyện
tâm. Trong khi hành thiền chỉ gom tâm vào một việc: "Quan sát
hơi-thở-vào-thở-ra". Liên tục quan sát và tâm dần dần trở nên an
lạc. Nếu tâm phóng nhảy đầu nầy đầu
nọ, vừa ngồi xuống là nhớ nhà, nó nhanh chóng xẹt
đi một đoạn đường dài về
đến nhà, vừa nghĩ rằng mình
đang thèm
ăn bún nấu gì
đó (quý vị vừa mới xuất gia -- đói
bụng phải không?) Thèm ăn, thèm
uống, đói bụng, mong muốn, nghĩ nhớ
đủ chuyện! Thèm thật là thèm. Nhưng nếu quý vị có thèm muốn
đến phát điên
đi nữa, hãy
để cho nó phát điên. Riêng
phần mình, hãy gia công thực hành, xuyên qua cơn khùng
điên ấy.
Cứ dũng mãnh tiếp tục thực hành! Quý vị có bao
giờ thiền hành chưa? Ði kinh hành như thế nào? "Tâm phóng". Hãy
dừng lại, chờ cho đến khi tâm quay
trở về. Nếu tâm phóng đi mà thật sự không trở lại, hãy nín
thở chờ đến khi không còn chịu
được nữa -- nó sẽ trở lại. Nếu ngồi
thiền mà tâm chạy nhảy phóng
đi đó đây, hãy giữ hơi thở lại, nín thở cho
đến lúc không chịu được nữa -- nó sẽ
trở lại! Hãy làm cho tâm trở nên dũng mãnh. Luyện tâm không
phải dễ như luyện thú, quý vị biết không, tâm thật sự rất khó rèn
luyện! Không nên nản lòng dễ dàng. Ðôi khi giữ hơi thở lại cho
đến lúc buồng phổi hình như
muốn vỡ ra là phương cách duy nhất để
chụp bắt cái tâm -- nó sẽ chạy trở về. Hãy làm thử xem!
Trong thời gian Nhập Hạ năm nay quý vị h ãy
tìm hiểu về phương pháp nầy. Ban ngày, hãy thực hành; ban
đêm, hãy thực hành; mỗi lúc có
chút thì giờ, hãy thực hành. Thiền hành ngày và
đêm, dầu chỉ có năm
hay mười phút, hãy thực hành! Cột giữ tâm mình vào
đề mục, liên tục quán niệm
đề mục ấy. Nếu trong khi thiền hành
mà có điều gì muốn nói, hãy
dừng bước lại, không nói. Rồi kéo sự chú tâm trở về đề mục, làm
cho nó liên tục không gián đoạn.
Như nước trong chai nầy, nếu ta giữ cho cái
chai hơi nghiêng, nước sẽ bắt đầu nhỏ
giọt, "từng giọt, từng giọt, từng giọt .." Nghiêng thêm,
nước sẽ chảy giọt lớn hơn, giọt lớn hơn .." Tâm niệm cũng vậy. Bây
giờ, nếu ta nghiêng hẳn cái chai, thật sự rót nước ra, nó sẽ trở
thành một dòng nước vững chắc, như từ trong vòi tuôn chảy ra,
không phải chỉ nhỏ giọt. Ðiều nầy có nghĩa là: dầu ta
đứng, đi, ngồi, hay nằm, nếu
luôn luôn giữ tâm giác tỉnh thì chánh niệm của ta vững chắc trôi
chảy như một dòng nước. Và nếu thật sự rót hẳn ra thì nó là dòng
nước vững chắc. Như vậy, nếu tâm phóng dật, chạy
đầu nầy nhảy đầu kia và lăng
xăng chao động, hãy nhớ đến
thí dụ trên. Tâm chú niệm của ta cũng chỉ như nước nhỏ
giọt, từng giọt.
Luyện tâm cũng chỉ thế thôi. Dầu ta có nghĩ đến
điều nầy điều nọ, tâm phóng dật không an, điều đó không quan
trọng. Chỉ gia công ki ên trì thực hành một cách liên tục,
ta sẽ phát triển trạng thái giác tỉnh
cho đến khi nó trở thành dòng nước trường lưu bất tức. Dầu
đi, đứng, nằm, ngồi hoặc gì
đi nữa, trạng thái an lạc ấy vẫn ở
ngay tại đây với ta. Hãy dũng mãnh tiến hành, quý vị sẽ
thấy! Nếu chỉ ngồi không cho có chừng, thành quả tốt
đẹp sẽ không tự nhiên phát
sanh. Như nếu cố gắng quá sức quý vị cũng không gặt hái
được gì. Mà không cố gắng chút
nào vẫn không được gì! Hãy nhớ
nằm lòng. Ðôi khi quý vị dã dượi không muốn ngồi lại hành thiền,
nhưng công việc đâu đó đã xong
nên ta ngồi xuống lắng tâm, và "pap!" cảm nghe an lạc. Dễ dàng,
bởi vì ta đã hiện hữu ngay ở
đó.
Hãy thực hành! Bấy nhiêu
đó đủ cho hôm nay.
-ooOoo-
[09]
Vấn Ðáp
Vấn: Bạch Sư,
con đã hết sức cố gắng thực hành nhưng hình như không tiến
đến đâu.
Ðáp: Ðiểm nầy rất quan trọng. Trong pháp
hành, không nên cố gắng tiến đến đâu
hết. Chính lòng ham muốn được
giải thoát hoặc được giác ngộ sẽ làm trở ngại hành giả trên
đường tiến đến giải thoát. Ta
có thể chuyên cần đến đâu, có thể
ngày đêm tích cực thực hành như thế nào, nhưng nếu tâm vẫn
còn vọng móng thành tựu điều gì ắt không bao giờ tìm ra thanh bình
an lạc. Năng lực phát xuất từ lòng
ham muốn ấy là nguyên nhân tạo hoài nghi và phóng dật.
Dầu ta có gia công đến đâu và
tinh tấn chuyên cần trong thời gian bao lâu, trí tuệ vẫn không
khởi phát từ lòng ham muốn. Như vậy, chỉ giản dị buông bỏ. Hãy
chuyên cần quán chiếu tâm và thân, danh và sắc, nhưng không cố
gắng thành tựu bất luận gì. Chí đến
pháp hành nhằm thành đạt giác ngộ cũng nên buông bỏ, không
bám vào nó.
Vấn: Bạch Sư, còn ngủ thì sao? Con phải ngủ
nhiều hay ít thế nào?
Ðáp: Chớ nên hỏi Sư. Sư không thể nói. Ðối
với vài người, mỗi đêm ngủ trung bình bốn tiếng là đủ.
Dầu sao, điều cần thiết là ta
phải tự quan sát và tự hiểu biết mình. Nếu cố gắng quá sức, ngủ
quá ít, ta sẽ cảm nghe cơ thể dã dượi, kém thoải mái, và không thể
giữ vững tâm niệm. Ngủ quá nhiều sanh hôn trầm hoặc phóng dật. Hãy
tự tìm lấy mức quân bình cho chính mình, thận trọng tự quán chiếu
tâm và thân, và theo dõi tìm hiểu nhu cầu ngủ của mình cho đến
khi nhận ra mức độ vừa phải, tốt đẹp nhất.
Nếu đã tỉnh giấc mà còn trăn
trở dật dựa ngủ nướng, thì đó là ô nhiễm. Vừa khi tỉnh giấc là
phải tức khắc củng cố chánh niệm.
Vấn: Bạch Sư, còn về vấn đề thọ thực? Nên
ăn bao nhiêu?
Ðáp: Ăn cũng
như ngủ. Phải tự mình lượng định, tự mình hiểu biết bao
nhiêu là đủ. Thức ăn phải được tiêu
thụ để cung ứng nhu cầu của cơ thể. Hãy nhìn nó như một món
thuốc. Có phải chăng là ăn nhiều quá
chỉ làm cho ta buồn ngủ sau bữa ăn và ngày càng mập ra. Hãy
dừng lại! Quán chiếu thân và tâm mình.
Không cần phải nhịn đói. Thay
vì nhịn ăn, hãy chứng nghiệm chút ít vật thực nào mà ta ăn. Hãy
tìm ra mức thăng bằng tự nhiên của cơ thể mình. Sớt chung lại vào
bát tất cả các thức ăn như các nhà sư sống trong rừng, ta có thể
lượng định số thực phẩm mà mình tiêu thụ. Hãy thận trọng theo dõi,
tự quan sát mình trong khi ăn, tự hiểu biết mình.
Tinh hoa của Giáo Pháp chỉ là vậy. Không cần
phải làm gì đặc biệt. Chỉ tự quán chiếu, tự quan sát, nhìn cái
tâm. Chừng đó ta sẽ nhận thức mức
thăng bằng tự nhiên cho pháp hành của mình.
Vấn: Bạch Sư, tâm của người Á Ðông và của
người Tây Phương có khác nhau không?
Ðáp: Trên căn bản thì không có gì khác.
Ngôn ngữ và những tập tục bề ngoài có thể thấy là khác, nhưng tâm
của con người có những đặc tính thiên nhiên như nhau nơi tất cả
mọi người. Tham và sân trong tâm người Á Ðông cũng giống như tham
và sân trong tâm người Tây Phương. Ðau khổ và sự chấm dứt đau
khổ của tất cả mọi người đều như nhau.
Vấn: Bạch Sư, có nên đọc sách thật nhiều
hay nghiên cứu kinh điển, xem đó là
một phần của pháp hành không?
Ðáp: Giáo Pháp của Ðức Phật không nằm trong
sách vở. Nếu muốn thật sự trông thấy những gì Ðức Phật dạy, không
cần phải bận tâm với sách vở.
Hãy quán chiếu tâm mình. Hãy thận trọng quan
sát xem những cảm giác và những xúc động
đến và đi như thế nào, xem coi những ý nghĩ đến như thế nào
và đi như thế nào. Không nên bám níu vào bất luận gì. Chỉ giác
tỉnh, ghi nhận và hay biết bất cứ gì mình thấy. Ðó là con đường
dẫn đến chân lý mà Ðức Phật dạy.
Hãy sống tự nhiên. Tất cả những gì ta làm ở đây
trong cuộc sống hiện tại, là cơ hội tốt đẹp
để thực hành. Tất cả là Giáo Pháp. Khi làm những công tác
lặt vặt thường ngày, hãy làm với chánh niệm.
Nếu có đi đổ ống nhổ hay rửa phòng
vệ sinh, chớ nên nghĩ rằng mình làm công việc cho ai, hay mình
đang giúp cho ai một ân huệ nào. Có
Giáo Pháp trong tác động đổ ống nhổ. Ðừng nghĩ rằng chỉ lúc
ngồi lại ngay thẳng và tréo hai chân theo thế kiết già mới là hành
thiền. Vài thiền sinh than phiền rằng ở đây
không có đủ thì giờ để hành thiền.
Vậy có đủ thì giờ để thở không?
Ðó là pháp hành thiền của ta: luôn luôn chú niệm, sống tự nhiên
trong lúc làm bất luận gì.
Vấn: Bạch Sư,
tại sao chúng con không được trình pháp với Thiền Sư mỗi
ngày?
Ðáp: Nếu quý thiền sinh có gì thắc mắc
trong pháp hành và cần phải được rọi sáng thì cứ tự nhiên đến gặp
các vị Thiền Sư và nêu lên câu hỏi.
Nhưng ở đây không cần các buổi trình pháp hằng ngày (theo
đó mỗi thiền sinh có thể trình với Thiền Sư những gì phát sanh đến
mình trong lúc hành thiền và được vị Thiền Sư chỉ dạy, sửa sai,
hoặc khuyến khích). Nếu Sư giải đáp
ngay tất cả những thắc mắc nhỏ nhặt, ắt thiền sinh sẽ không
bao giờ thông hiểu tiến trình hoài nghi trong tâm mình. Ðiều chánh
yếu là chính thiền sinh phải học tự quán sát mình, tự vấn mình, tự
"trình pháp" với mình. Hãy thận trọng lắng nghe các bài giảng của
Thiền Sư -- ở đây vài ngày có giảng một lần -- rồi so sánh pháp
hành của mình với những lời chỉ dạy ấy. Có giống vậy không? Có gì
khác không? Tại sao ta hoài nghi? Ta nghi ngờ gì đây? Chỉ bằng
cách tự quán sát mình ta mới có thể thông hiểu.
Vấn: Bạch Sư,
đôi khi con lo lắng về đường lối thọ trì giới luật của nhà
sư. Nếu tình cờ con làm chết một côn trùng, điều ấy có phải là tạo
nghiệp bất thiện không?
Ðáp: Sìla, hay giới luật, rất thiết
yếu cho pháp hành. Nhưng không nên bám chặt, dính kẹt trong đó một
cách mù quáng. Trong khi phạm giới sát sanh, cũng như vi phạm các
giới khác, yếu tố quan trọng là tác ý, ý muốn làm, cái chủ tâm đưa
đến hành động. Hãy hiểu biết cái tâm của mình, không nên
quá lo âu về giới luật của nhà sư. Nếu nghiêm túc trì giới một
cách thích nghi thì giới đức hỗ trợ cho pháp hành. Nhưng có vài sị
sư quá bận tâm lo lắng về các giới nhỏ nhặt đến
độ ngủ không an giấc. Giới luật không phải là cái gì phải
mang theo như một gánh nặng. Nền tảng của pháp hành là giới luật.
Giới đức trong sạch, thọ trì các hạnh
đầu đà, và hành thiền. Giác tỉnh chú niệm và thận trọng
nghiêm trì 227 giới chánh và nhiều giới phụ là lợi ích lớn lao.
Giới luật giúp làm cho cuộc sống trở nên đơn giản.
Không cần phải đắn đo nghĩ ngợi hay
bận tâm lo lắng phải hành động như thế nào, và như thế,
tránh cho ta khỏi suy tư, mà chỉ giản dị gom tâm chú niệm.
Giới luật giúp cho tăng chúng sống
chung với nhau một cách hòa hợp, Phật sự tiến triển tốt đẹp và,
từ bên ngoài nhìn vào, thấy mọi người hành động
điều hòa và cùng hướng về một lý tưởng.
Giới luật và luân lý còn là nền tảng vững chắc
mà, đứng vững hai chân trên đó, hành giả có thể tiến đến
định và tuệ. Bằng cách hành đúng theo giới luật của hàng
xuất gia và các hạnh đầu đà chúng ta
bắt buộc phải sống đơn giản, sống tri túc, chỉ giới hạn sở hữu
trong những vật dụng thật sự cần thiết. Như vậy, chúng ta
có trọn vẹn pháp hành của Ðức Phật: "Không hành ác, hành thiện,
sống đơn giản và thanh lọc tâm". Ðó là luôn luôn giác tỉnh theo
dõi, quán chiếu cái tâm của mình, thận trọng chú niệm trong tất cả
các oai nghi đi, đứng, nằm. ngồi,
luôn luôn tự hiểu biết mình.
Vấn: Bạch Sư, có những ngày tâm con bị hoài
nghi khuấy động. Hoài nghi pháp hành, hoài nghi tiến bộ của mình,
hoài nghi luôn đến vị Thiền Sư. Khi hoài nghi phát sanh thì con
phải làm sao?
Ðáp: Hoài nghi là tự nhiên. Vào buổi ban sơ
ai cũng hoài nghi. Ta có thể học hỏi rất nhiều nơi hoài nghi. Ðiều
quan trọng là không nên tự đồng hóa mình với hoài nghi, xem nó là
mình, mình là nó, có nghĩa là không nên để
dính kẹt trong đó. Nó sẽ cuốn tròn quấn chặt tâm mình trong
một vòng lẩn quẩn vô cùng tận. Thay vì tự đồng hóa với nó, hãy
theo dõi quan sát toàn thể tiến trình của hoài nghi, của tâm phóng
dật. Xem coi ai hoài nghi, hoài nghi đến và đi như thế nào.
Chừng đó ta không còn là nạn
nhân của hoài nghi nữa. Ta sẽ bước ra ngoài, vượt ra khỏi hoài
nghi, và tâm sẽ trở nên vắng lặng. Ta
sẽ có thể nhận thấy tất cả sự vật đến như thế nào và đi như
thế nào, rồi để cho tất cả trôi qua, buông bỏ những gì mà trước
kia ta bám níu. Ta buông bỏ những hoài nghi. Chỉ giản dị nhìn nó.
Ðó là phương cách chấm dứt hoài nghi.
Vấn: Bạch Sư, còn các pháp hành khác thì
sao? Hiện nay có rất nhiều thiền sư và rất nhiều hệ thống dạy
thiền khác nhau. Ðiều nầy làm cho người muốn tìm học thiền rất
hoang mang.
Ðáp: Cũng
giống như đi ra thành phố. Ta
có thể đến phố từ hướng Bắc, hướng Ðông, hay hướng Nam, từ
nhiều ngã đường. Các hệ thống ấy thường chỉ khác nhau bề ngoài.
Dầu đi ngã nầy hay ngã khác,
dầu đi chậm hay nhanh, nếu giữ vững chánh niệm thì tất cả đều như
nhau. Ðiểm chánh yếu mà tất cả các pháp hành chân chánh đều
phải đạt đến là không bám níu. Ðến mức cùng tột, tất cả các
hệ thống hành thiền đều cũng phải
được buông xả. Cũng không nên bám vào thầy tổ.
Nếu một hệ thống dẫn đến buông bỏ,
không bám níu vào gì hết thì đó là pháp hành chân chánh.
Có thể quý vị muốn ra đi, lên đường, đến viếng
các vị Thiền Sư khác và thử thực hành phương pháp của các
hệ thống khác. Vài người trong quý vị đã làm như vậy rồi.
Sự ham muốn đó là tự nhiên.
Quý vị sẽ nhận thấy rằng hằng ngàn câu hỏi được nêu lên và kiến
thức uyên bác bao nhiêu trong nhiều hệ thống sẽ không đem
quý vị đến chân lý. Rồi quý vị sẽ chán nản.
Quý vị sẽ thấy rằng chỉ đến lúc dừng
lại và quán chiếu thân và tâm của chính mình ta mới tìm gặp
những gì Ðức Phật truyền dạy. Không cần phải tìm đâu ngoài ta. Rồi
quý vị phải quay cái nhìn trở lại, đối diện với bản chất thiên
nhiên của chính mình. Chính đây là
nơi mà quý vị có thể thông hiểu Giáo Pháp.
Vấn: Bạch Sư, hình như có nhiều vị sư ở đây
không chuyên chú hành thiền. Các vị ấy buông lung lêu lổng hoặc
không tinh tấn chú niệm. Thấy vậy con lấy làm khó chịu.
Ðáp: Nhìn xem người khác làm gì không phải
là thái độ chánh đáng. Hành động
ấy không giúp được gì cho pháp hành của mình. Nếu cảm nghe
khó chịu, hãy nhìn vào trạng thái khó chịu ấy trong tâm.
Nếu giới hạnh của người kia không
được tinh nghiêm, hoặc nếu người nọ là một nhà sư kém giới
đức, xét đoán chuyện ấy không phải là
phần việc của ta. Không thể khai triển trí tuệ của mình bằng cách
nhìn xem người khác làm gì. Giới luật của hàng xuất gia là công cụ
để được xử dụng trong pháp hành
chớ không phải là khí giới dùng để
chỉ trích, hoặc để bươi móc, tìm tòi vạch lỗi người khác.
Không ai có thể hành thiền cho ta, mà ta cũng không thể hành cho
ai khác.
Hãy giác tỉnh, chú niệm vào điều gì mình đang
làm. Ðó là đường lối thực hành.
Vấn: Bạch Sư,
đến nay con hết sức thận trọng trong việc thu thúc lục căn.
Con luôn luôn nhìn xuống và luôn luôn giữ chánh niệm trong từng
tác động nhỏ nhặt. Thí dụ như khi thọ thực, con phải mất rất nhiều
thì giờ và hay biết từng chi tiết: nhai, ý thức mùi vị, nuốt
v.v... Mỗi giai đoạn như vậy thì con
rất thận trọng trong từng tác động. Con hành như thế có
đúng không?
Ðáp: Thu thúc
lục căn là pháp hành chân chánh. Ðúng như vậy. Phải luôn
luôn giác tỉnh. Suốt ngày hay biết điều gì xảy đến các giác quan.
Tuy nhiên, không nên làm quá độ! Hãy đi
đứng, ăn uống, và hành động một cách tự nhiên. Hãy phát
triển tâm niệm một cách tự nhiên, hồn nhiên hay biết những gì xảy
diễn bên trong chúng ta.
Không nên cưỡng ép pháp hành, cũng không nên tự
cưỡng bách mình có những thái độ vụng về khó coi. Ðó là một hình
thức tham vọng khác. Hãy nhẫn nại. Cần phải nhẫn nại và bền chí
kiên trì. Nếu ta hành động một cách tự nhiên và giác tỉnh chú niệm
thì trí tuệ cũng phát sanh một cách tự nhiên.
Vấn: Bạch Sư, có cần thiết phải ngồi thiền
suốt một thời gian dài không?
Ðáp: Không. Không cần phải ngồi từ giờ nầy
sang giờ khác. Vài người nghĩ rằng càng ngồi lâu hành giả càng
sáng suốt hơn. Sư có thấy những con gà mái ngồi trong ổ ngày nầy
qua ngày kia!
Trí tuệ phát sanh từ trạng thái giác tỉnh chú
niệm trong mọi oai nghi. Ngay từ lúc vừa tỉnh giấc thì phải bắt
đầu niệm. Và như thế, thực hành cho đến khi ngủ trở lại. Không nên
lo lắng về điểm ngồi được bao lâu.
Ðiều quan trọng chỉ là tỉnh thức, dầu trong lúc làm việc, lúc
ngồi, hoặc lúc đi giải.
Mỗi người có một khoảng thời gian ngồi tự nhiên
vừa phải của mình. Vài người trong quý vị sẽ lìa đời vào lứa tuổi
năm mươi, vài người khác ở tuổi sáu mươi, và vài người khác nữa
vào độ cửu tuần. Cùng thế ấy, thời gian mà mỗi người có thể ngồi
được cũng không giống nhau.
Không nên thắc mắc hay lo âu về điểm nầy. Hãy
cố gắng giữ tâm luôn luôn giác tỉnh và để cho sự vật trôi chảy
theo bản chất thiên nhiên của nó. Chừng ấy tâm sẽ trở nên ngày
càng vắng lặng hơn, dầu cảnh vật quanh ta như thế nào.
Tâm sẽ giống như ao hồ tĩnh lặng giữa rừng sâu
hoang vắng. Những loài thú hiếm hoi và kỳ lạ sẽ đến uống nước dưới
hồ. Ta sẽ thấy rõ ràng bản chất thật sự của vạn hữu.
Ta sẽ gặp đủ loại cảnh vật kỳ diệu,
lạ lùng, đến rồi đi. Nhưng chính ta sẽ yên tĩnh, vắng lặng,
tự tại. Những vấn đề khó khăn sẽ phát
sanh, và trong tức khắc ta sẽ nhận thấy sự vật xuyên qua
những khó khăn ấy.
Ðó là hạnh phúc giác ngộ, hạnh phúc của chư
Phật.
Vấn: Bạch Sư, con có rất nhiều ý nghĩ.
Tâm con quá đổi buông lung.
Mặc dầu con cố gắng củng cố chánh niệm, tâm vẫn phóng dật.
Ðáp: Không nên lo âu về điều nầy. Hãy giữ
tâm an trú trong hiện tại. Bất luận gì
phát sanh đến tâm, hãy nhìn nó mà không dính mắc. Hãy buông
bỏ, để cho nó trôi qua. Cũng không nên muốn nó đi mất.
Như vậy tâm sẽ đạt đến trạng thái
thiên nhiên của nó.
Không nên phân biệt tốt và xấu, nóng và lạnh,
mau và chậm. Không có tôi và không có anh. Không có tự ngã chút
nào, chỉ là vậy. Khi đi trì
bình, không cần phải làm gì đặc biệt.
Chỉ giản dị đi và thấy cảnh vật nào đến với ta như nó là
vậy. Không cần phải bận bịu hay quyến
luyến cảnh cô đơn vắng vẻ hay trạng thái ẩn dật. Dầu ở nơi
nào, hãy tự hay biết mình bằng cách sống tự nhiên và tự quán
chiếu, tự quan sát mình.
Nếu hoài nghi phát sanh, hãy nhìn nó đến và đi.
Quả thật rất giản dị. Không giữ lại gì cả.
Cũng như ta đang đi trên con đường đổ
dốc xuống và thỉnh thoảng gặp trở ngại. Gặp ô nhiễm cũng
vậy. Chỉ nhìn, và chỉ khắc phục bằng cách để
cho nó trôi qua theo con đường thiên nhiên của nó. Không
nên suy tư về những trở ngại mà mình đã vượt qua. Không nên lo âu
về những trở ngại mà mình chưa gặp phải. Hãy sống trong hiện tại,
bám sát vào hiện tại. Không nên bàng hoàng lo âu về chiều dài của
con đường mà mình phải trải qua, không nên băn
khoăn nghĩ ngợi về mục tiêu mà mình phải đạt
đến.
Mọi sự vật đều biến đổi. Bất luận gì mà
ta đi ngang qua, không nên vướng víu. Ngày kia
tâm sẽ đạt đến mức thăng bằng tự nhiên của nó và vào lúc ấy
pháp hành sẽ trôi chảy mà không cần ta lưu ý đến.
Tất cả mọi sự vật sẽ đến và sẽ đi.
Vấn: Bạch Sư, có khi nào Sư xem kinh sách
của Ngài Lục Tổ Huệ Năng không?
Ðáp: Trí tuệ của Ngài Huệ Năng quả thật bén
nhạy. Giáo huấn của Ngài quả thật sâu sắc và người sơ cơ không dễ
gì lãnh hội. Tuy nhiên, nếu thực hành đúng theo phương pháp của
chúng ta và kiên trì tinh tấn, nếu chuyên cần tinh luyện trong
hạnh buông bỏ, ta sẽ thấu đạt. Lần nọ
có một đệ tử của Sư sống trong lều tranh. Vào năm ấy trời
mưa thật nhiều. Ngày kia giông tố làm tróc phân nửa cái nóc tranh
của tịnh thất. Vị sư ấy không màng sửa lại nóc lều, để mặc cho mưa
dột. Nhiều ngày trôi qua như vậy. Hôm nọ Sư hỏi vị ấy về cái nóc
tịnh thất. Ông ta đáp rằng mình đang
hành pháp buông bỏ. Ðó là một lối buông bỏ không có trí
tuệ. Nó cũng giống như thái độ bình
thản, hay tâm xả của con trâu đang trầm mình dưới nước,
không màng đến cơn nóng bức mùa hè. Nếu sống bình dị cuộc đời
tốt đẹp, nếu sống nhẫn nhục và vị tha, ta sẽ thông hiểu trí
tuệ của Ngài Huệ Năng.
Vấn: Bạch Sư, Sư có dạy rằng thiền Vắng
Lặng (Samatha) và thiền Minh Sát (Vipassanà) là hai pháp hành
giống nhau. Xin Sư vui lòng giảng rộng thêm.
Ðáp: Thật dễ hiểu. Thiền Vắng Lặng (Samatha)
và thiền Minh Sát (Vipassanà) cùng đi chung với nhau. Trước
tiên, do nhờ pháp hành gom tâm an trụ vào đề mục, tâm trở nên an
tĩnh, vắng lặng. Tâm chỉ vắng lặng trong khi ta ngồi thiền, mắt
nhắm. Ðó là thiền Vắng Lặng. Tâm định
(samàdhi) căn bản nầy
sẽ khởi duyên cho trí tuệ, hay tuệ Minh Sát, phát sanh. Ðến
mức độ nầy tâm luôn luôn vẫn an tĩnh, dầu ta ngồi nhắm mắt hành
thiền nơi vắng vẻ hay đi bách bộ giữa phố phường nhộn nhịp. Nó là
vậy. Ngày nào còn là trẻ con giờ đây
lớn khôn, ta đã là người đứng tuổi. Em bé thuở nào và người
đứng tuổi hiện nay có phải là một không? Có thể nói là một. Hoặc,
theo một lối nhìn khác, có thể nói là hai người khác biệt. Cùng
thế ấy ta có thể nhìn tách rời thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát.
Chớ tin chắc Sư bằng lời. Hãy thực hành đi rồi tự mình sẽ thấy.
Không cần phải làm gì đặc biệt. Nếu
chăm chú quan sát, nhìn xem "vắng lặng" và "trí tuệ" phát
sanh thế nào, quý vị sẽ tự bản thân thấu đạt chân lý.
Trong những năm sau nầy người ta quá
chú trọng đến danh từ. Họ gọi pháp hành của họ là Minh Sát,
và coi rẻ thiền Vắng Lặng. Hoặc họ gọi thiền của họ là Vắng Lặng
và hãnh diện nói rằng muốn thành công hành Minh Sát phải trải qua
giai đoạn hành thiền Vắng Lặng. Tất cả những lời qua tiếng lại ấy
là điên cuồng. Chớ nên bận tâm suy tư. Chỉ giản dị thực hành. Tự
mình sẽ thấy.
Vấn: Bạch Sư, trong pháp hành của chúng ta,
có cần phải nhập định không?
Ðáp: Không.
Không cần phải nhập định. Phải củng cố trạng thái vắng lặng
và gom tâm an trụ vào một điểm duy nhất. Rồi dùng tâm nhất điểm ấy
tự quán chiếu, tự quan sát mình. Không cần phải có gì đặc biệt.
Nếu trong khi hành thiền mà tâm định phát sanh thì cũng tốt vậy.
Nhưng không nên cố bám, giữ nó lại. Vài người tiến đạt
đến tâm định rồi lấy làm thỏa thích, dính kẹt luôn trong đó.
Ở vào trạng thái vắng lặng của tâm toàn định
có rất nhiều thích thú, nhưng phải biết đúng giới hạn của nó.
Nếu là người sáng suốt ta sẽ biết rõ tác dụng và giới hạn của tâm
định, cũng như ta biết giới hạn của
tuổi thơ, đến lúc nào phải hành động
như người đứng tuổi.
Vấn: Bạch Sư, tại sao thọ trì hạnh đầu
đà, như chỉ ăn từ trong bát?
Ðáp: Hạnh đầu
đà giúp hành giả cắt bớt ô nhiễm.
Bằng cách thọ giới, chỉ ăn trong bát,
ta có thể dễ dàng chú tâm hơn vào thức ăn,
xem đó là một thứ thuốc. Nếu
đã tận diệt mọi ô nhiễm thì dầu thọ thực như thế nào cũng
không thành vấn đề. Ở đây, tại thiền
viện, chúng ta áp dụng hình thức chỉ ăn trong bát nhằm giúp làm
cho pháp hành đơn giản. Ðức Phật không bắt buộc tất cả các vị tỳ
khưu phải thọ trì hạnh đầu đà,
nhưng Ngài cho phép vị nào muốn, có thể tự khép mình vào khuôn khổ
của giới luật khắc khe nầy. Những giới nầy giúp cho nếp sống kỷ
cương thêm chặt chẽ và do đó, giúp
tăng trưởng ý chí và năng lực. Ðây là những quy luật mà mỗi
người nỗ lực gìn giữ cho mình. Không nên nhìn xem người khác thực
hành như thế nào. Hãy nhìn cái tâm của mình và xem điều gì lợi ích
cho mình. Một thông lệ khác của thiền viện là thiền sinh phải chấp
nhận chỗ ở mà người ta chỉ định cho mình. Ðây cũng là một kỷ cương
hữu ích nhằm giúp thiền sinh không bận bịu với chỗ ở.
Nếu một thiền sinh đã ra đi rồi trở
lại thì phải ở một chỗ khác. Ðó là pháp hành của chúng ta:
không bám níu vào bất luận gì.
Vấn: Bạch Sư, nếu việc sớt tất cả vật thực
vào bát là quan trọng, tại sao chính Sư là thầy mà không làm như
vậy? Sư không cảm thấy rằng điều quan
trọng là vị thiền sư phải nêu gương cho thiền sinh sao?
Ðáp: Ðúng, quả thật đúng là vị Thiền Sư
phải làm gương cho đệ tử. Sư không
quan tâm đến việc quý vị chỉ trích Sư. Quý vị muốn hỏi gì
cứ hỏi. Tuy nhiên, điểm quan trọng là không nên trìu mến, bám níu
theo vị thầy của mình. Nếu bề ngoài Sư thật sự là hoàn toàn thì ắt
là nguy hiểm. Tất cả quý vị sẽ quá
đổi trìu mến, quyến luyến Sư.
Chí đến Ðức Phật, đôi khi cũng
dạy đệ tử làm một việc rồi Ngài làm theo đàng khác. Lòng
hoài nghi ông thầy có thể giúp quý vị. Quý vị nên nhìn phản ứng
của mình, thử nghĩ xem có thể nào Sư sớt thức ăn từ bình bát ra
dĩa để tặng cho những vị cư sĩ làm công quả quanh chùa được không?
Quý vị nên tự quán chiếu và khai triển trí tuệ của mình. Chỉ thọ
nhận nơi thầy những gì tốt đẹp. Hãy giác tỉnh hay biết pháp hành
của mình. Nếu Sư nằm nghỉ trong khi quý vị phải ngồi ngay thẳng
hành thiền, điều ấy có làm cho quý vị phiền giận không? Nếu màu
xanh mà Sư nói là đỏ, đàn ông
mà Sư gọi đàn bà, chớ nên tin lời Sư một cách mù quáng.
Một trong các vị thầy của Sư có thói quen ăn
thật nhanh và khi ăn gây nên nhiều tiếng động. Như vậy mà
Ngài dạy đệ tử phải ăn từ từ và ăn
với chánh niệm. Lúc ấy Sư nhìn thầy và lấy làm khó chịu,
bực mình. Sư đau khổ. Nhưng
thầy thì không! Sư chỉ nhìn thầy từ bên ngoài.
Về sau Sư học được bài học.
Vài người lái xe đi thật nhanh, nhưng cẩn thận. Có những người
khác lái chậm nhưng thường gây tai nạn. Không nên bám chắc vào
thông lệ, dính mắc trong hình thức bề ngoài.
Nếu quý vị bỏ ra mười phần trăm thì
giờ để nhìn người khác và tự nhìn mình suốt chín mươi phần
trăm còn lại thì đó là hành đúng. Lúc
ban đầu Sư thường nhìn vị thầy của Sư là Ajahn Tong Raht và
đâm ra hoài nghi. Người ta tưởng là Ngài đã mất trí. Ngài làm
những chuyện lạ đời và tỏ ra rất hung hăng
đối với đệ tử. Nhìn bề ngoài thấy hình như Ngài giận dữ,
nhưng bên trong thì không có gì.
Không có ai trong đó hết. Quả
thật đặc biệt tuyệt diệu! Ngài giữ tâm sáng suốt và giác
tỉnh chí đến giờ phút viên tịch. Nhìn người từ bên ngoài làm cho
cái "Ta" của mình phân biệt, so sánh. Không thể tìm ra hạnh phúc
bằng đường lối ấy. Quý vị cũng sẽ
không thể an lạc nếu để mất thì giờ đi tìm một người toàn
hảo hoặc một vị thầy lý tưởng. Ðức Phật dạy chúng ta nên nhìn vào
Giáo Pháp, chân lý, không nên nhìn người khác.
Vấn: Bạch Sư, theo pháp hành của chúng ta,
làm thế nào để khắc phục khát vọng? Ðôi khi con cảm thấy mình làm
nô lệ cho nhục dục ngũ trần.
Ðáp: Khi lòng tham dục trổi dậy, nên lặp
lại thế quân bình bằng cách quán niệm đặc tính ô trược của cơ thể
vật chất. Luyến ái, bám níu vào thân nầy là một cực đoan, và ta
phải lập tâm ghi nhận trạng thái đối nghịch, bề trái của nó. Hãy
quán chiếu thân nầy, xem như một xác chết và theo dõi nhìn tiến
trình hư hoại của nó. Hoặc quán niệm các bộ phận của thân như
phổi, mật, mỡ v.v... Ghi nhớ và hình dung phần uế trược đáng ghê
tởm của thân mỗi khi tham dục phát sanh. Thực hành như vậy sẽ vượt
thoát ra khỏi tham dục.
Vấn: Bạch Sư, còn sân hận thì sao? Con phải
làm gì khi cảm nghe mình nổi giận?
Ðáp: Phải niệm tâm Từ.
Nếu trong lúc đang hành thiền
mà có tâm sở sân hận khởi dậy, hãy lập thế quân bình bằng cách
khai triển những tư tưởng từ ái. Nếu có ai làm điều sai quấy hay
tỏ ra giận dữ với mình, chính mình không nên nổi giận, vì cũng sân
như họ thì ta còn si mê hơn họ nữa. Hãy sáng suốt. Hãy giữ vững
tâm bi, thương hại họ vì họ đang đau
khổ. Hãy phát triển tâm từ, với lòng chứa chan từ ái, xem
họ như anh chị em ruột thịt thân yêu. Hãy lấy tâm từ làm đề mục
quán niệm và ban rải tình thương đậm
đà vô lượng vô biên đến toàn thể chúng sanh trong ba giới
bốn loài. Chỉ có tâm Từ mới chế ngự sân hận.
Ðôi khi có thể quý vị thấy các nhà sư hành
động sai lầm và lấy làm khó chịu. Ðó là đau khổ một cách
không cần thiết, chưa phải là đạt đến
Giáo Pháp của chúng ta. Quý vị có thể nghĩ như vầy:
"Vị nầy giới đức không chặt chẽ trong
sạch như ta. Các vị kia không chuyên chú hành thiền như
chúng ta. Các nhà sư nọ không tốt." Ðó là phần ô nhiễm to lớn của
quý vị. Không nên so sánh. Không nên phân biệt. Hãy buông xả, để
cho những ý kiến riêng tư của quý vị trôi qua. Không nên bám vào
nó mà chỉ tự nhìn chính mình. Ðó là Giáo Pháp. Quý vị không thể
làm cho tất cả mọi người hành động theo ý muốn của mình, hoặc
giống như mình. Lòng mong muốn tương tợ chỉ làm cho ta đau khổ. Và
đó là sai lầm chung của phần lớn các thiền sinh. Nhìn người khác
không thể khai triển trí tuệ cho mình. Chỉ giản dị tự quán chiếu,
quay cái nhìn trở vào bên trong để quan sát những thọ cảm của
mình. Ðó là phương cách để thấu đạt
chân lý.
Vấn: Bạch Sư, con thường hay buồn ngủ. Ðiều
nầy làm cho con khó hành thiền.
Ðáp: Có nhiều
cách để khắc phục buồn ngủ.
Nếu đang ngồi trong tối, hãy di chuyển đến một nơi có nhiều
ánh sáng. Mở mắt ra. Ðứng dậy đi rửa
mặt hoặc đi tắm. Thay đổi oai
nghi, như đang ngồi đứng dậy đi. Ði kinh hành nhiều. Ði
thụt lùi, lòng lo sợ đụng vật gì ở phía sau làm cho ta tỉnh thức.
Nếu vẫn còn buồn ngủ hãy đứng yên ngay thẳng và tưởng tượng như
mình đang ở một nơi sáng rực như ban ngày. Hoặc nữa, ngồi bên vực
thẳm hay trên miệng một cái giếng sâu. Ta sẽ sợ mà không dám ngủ.
Nếu đã làm tất cả mà không hết
buồn ngủ, hãy đi ngủ. Thận trọng nằm xuống và cố gắng giữ tâm giác
tỉnh, luôn luôn giữ chánh niệm cho đến khi an giấc, hãy dậy liền.
Không nên nằm đó nhìn đồng hồ hay lăn
qua trở lại, trăn trở ngủ nướng. Hãy bắt đầu niệm ngay từ
lúc tỉnh giấc. Nếu thường ngày hằng buồn ngủ như vậy, hãy cố gắng
bớt ăn lại và thận trọng tự
quán sát trong khi thọ thực. Ðến lúc còn năm
miếng ăn nữa là vừa thì dừng lại. Uống nước vào là đủ. Hãy
đi ngồi thiền. Nhìn trạng thái buồn ngủ và đói bụng.
Phải học giữ mức thăng bằng trong khi
thọ thực. Thực hành như vậy quý vị sẽ cảm nghe tự nhiên
tinh tấn hơn và ăn ít lại. Nhưng phải tự mình điều chỉnh, tìm mức
độ quân bình vừa phải cho mình.
Vấn: Bạch Sư,
tại sao ở đây phải lễ lạy nhiều quá vậy?
Ðáp: Lễ lạy rất quan trọng. Hình thức bề
ngoài đó là một phần của pháp hành. Hình thức nầy phải được thực
hiện một cách thích nghi. Khấu đầu
đụng tới sàn nhà, đặt hai cùi chỏ gần đầu gối và hai lòng
bàn tay trải nằm sát đất, cách nhau khoảng một tấc. Ðảnh lễ một
cách khoan thai, luôn luôn giác tỉnh theo dõi tác động của mình.
Ðây là một loại thuốc rất công hiệu để chữa bệnh ngã mạn. Ta nên
lễ lạy thường. Trong khi lạy ba lạy
ta có thể quán tưởng đến phẩm hạnh của Ðức Phật, của Giáo
Pháp và của chư Tăng. Ðó là phẩm chất trong sạch toàn hảo, rạng tỏ
sáng ngời và thanh bình an lạc. Như vậy ta dùng hình thức bề ngoài
để tự huấn luyện. Thân và tâm sẽ trở nên điều hòa. Không nên sai
lầm nhìn người khác đảnh lễ như thế nào.
Nếu chú sa di trẻ tuổi đảnh lễ một
cách vụng về cẩu thả hay vị sư già không thận trọng giác
tỉnh, phận sự của ta không phải là xét đoán họ.
Có người luyện tập khó khăn. Có người
lanh trí học mau, cũng có những người khác chậm lụt phải mất nhiều
thì giờ để học. Phán xét người khác chỉ làm tăng trưởng tính ngã
mạn của mình. Thay vì nhìn người, hãy nhìn chính mình. Hãy lễ lạy
thường để làm giảm suy tính ngã mạn.
Những vị thật sự sống điều hoà với Giáo Pháp đã
vượt qua khỏi những lễ nghi bề ngoài ấy. Mọi việc làm của các Ngài
là một hình thức đảnh lễ. Ðối với các Ngài, đi là đảnh lễ; thọ
thực là đảnh lễ; mọi việc làm là đảnh lễ. Ðó là vì các Ngài đã
vượt ra khỏi mọi hình thức vị kỷ, không còn cái "Ta".
Vấn: Bạch Sư,
khi dạy các thiền sinh mới nhập môn, vấn đề khó khăn nhất mà
Sư gặp phải là gì?
Ðáp: Ý kiến.
Họ có những quan điểm và những ý niệm riêng tư về tất cả.
Về bản thân họ, về pháp hành, về giáo huấn của Ðức Phật.
Ðến đây học có
nhiều người trước kia đã ở những địa vị cao sang trong cộng đồng.
Ngoài đời họ là thương gia giàu có, là những
người tốt nghiệp đại học, những giáo sư, hay những công
chức cao cấp. Tâm não họ còn đầy những ý kiến về tất cả mọi sự
vật. Họ quá thông minh để còn
phải lắng nghe ai khác. Cũng như tách nước.
Nếu nước đựng trong tách đã dơ, đầy
bụi bậm, đục ngầu và có mùi hôi thì không còn dùng được
nữa. Chỉ khi nào ta đổ hết nước đó ra
ngoài, cái tách mới có thể hữu dụng.
Phải đổ trút hết những ý kiến, phải
gội rửa làm cho tâm trống không, chừng đó ta sẽ thấy. Pháp
hành của chúng ta vượt ra ngoài trí thông minh và ngu độn. Nếu
nghĩ rằng, "Ta thông minh. Ta giàu có. Ta quan trọng. Ta thấu hiểu
tất cả Giáo Pháp", quý vị chỉ che đậy
chân lý anattà, vô ngã. Tất cả những gì quý vị thấy
là tự ngã, ta, của ta. Nhưng Phật Giáo dạy buông bỏ tự ngã. Chỉ
trống rỗng, chân không, Niết Bàn.
Vấn: Bạch Sư, những ô nhiễm như tham hay
sân thật sự có không, hay chỉ huyền ảo?
Ðáp: Cả hai. Các ô nhiễm mà ta gọi là tham,
sân, hay si chỉ là những danh từ, những cái tên, những hình dáng
bề ngoài. Cũng chỉ như ta nói cái chén nầy
to, nhỏ, đẹp, hay bất luận gì khác. Ðiều đó không phải là
thực tại. Ðó chỉ là những khái niệm mà ta đã tạo nên do lòng tham.
Nếu muốn một cái chén to thì ta gọi cái nầy là nhỏ. Chính lòng ham
muốn làm cho ta phân biệt. Còn chân lý trái lại, chỉ là cái gì
thật sự là vậy. Nhìn theo đường lối nầy, quý vị có phải là đàn ông
không? Quý vị nói là "phải". Nhưng nó chỉ là hình dáng bề ngoài
của sự vật. Trong thực tế quý vị chỉ là sự hợp thành của những
nguyên tố, những cấu hợp, những uẩn, luôn luôn biến chuyển.
Nếu đã tự do, hoàn toàn giải
thoát, tâm sẽ không còn phân biệt nữa. Không lớn, không nhỏ, không
bạn, không tôi. Không có gì cả: ta nói Anattà, Vô Ngã.
Trong thực tế, đến mức cùng
tột cũng không có Attà, Ngã hay Anattà, Vô Ngã.
Vấn: Bạch Sư, xin Sư vui lòng chỉ dạy thêm
về lý nghiệp báo.
Ðáp: Kamma, hay nghiệp, là hành
động. Kamma là bám níu, hay dính mắc. Tất cả thân, khẩu, và
ý đều tạo nghiệp khi ta bám níu. Chúng ta tạo thói quen. Những
thói quen nầy làm cho ta đau khổ trong tương lai. Ðó là hậu quả
của sự bám níu, những ô nhiễm của ta trong quá khứ.
Tất cả mọi dính mắc hay bám níu đều
dẫn đến tình trạng tạo nghiệp. Thí dụ như trước kia ta là
tên trộm và nay trở thành một nhà sư.
Ta đã ăn trộm, làm cho người khác buồn phiền, làm cha
mẹ đau khổ. Trong hiện tại ta
là một nhà sư. Nhưng khi hồi nhớ lúc nào đã tạo cảnh bất hạnh cho
người khác thì ta cảm nghe bùi ngùi, vô phúc, đau khổ -- trong giờ
phút nầy. Hãy ghi nhận rằng không phải chỉ có hành động bằng thân
mới tạo nghiệp, mà lời nói và ý nghĩ cũng tạo duyên cho quả trổ
sanh trong tương lai. Nếu trong quá khứ ta có một hành động
từ ái, bi mẫn, giờ đây, khi nhớ lại, ta cảm nghe hạnh phúc.
Trạng thái tâm hỷ lạc nầy là hậu quả của thiện nghiệp trong quá
khứ. Tất cả mọi sự vật đều khởi
sanh từ một nhân nào -- nhân được gieo trong quá khứ xa xôi hay,
nếu ta tỉ mỉ quán xét, nhân mà ta tạo trong từng phút, từng giây,
từng khoảnh khắc. Nhưng ta không cần phải bận tâm nghĩ ngợi về quá
khứ, hiện tại, hay tương lai. Chỉ nhìn thân và tâm, sắc và danh.
Phải tự mình nhận ra hậu quả của nghiệp. Hãy nhìn cái tâm của
mình. Thực hành đi, rồi sẽ thấy rõ. Nhưng còn nghiệp của người
khác thì để họ lo. Không nên dính mắc, không nên nhìn người khác.
Nếu Sư uống thuốc độc thì Sư đau khổ.
Quý vị không cần phải chia sớt thuốc
độc với Sư! Hãy nhận lãnh những gì tốt đẹp mà vị thầy hiến
cho mình. Quý vị sẽ trở nên an lạc, tâm của quý vị sẽ giống như
tâm của thầy. Nếu tinh tấn gia công quán niệm quý vị sẽ thấu rõ,
sẽ tự mình lãnh hội.
Ðó là thực hành Giáo Pháp. Khi chúng ta còn trẻ
tuổi cha mẹ thường la rầy để khép chúng ta vào khuôn khổ kỷ cương,
và ta phiền giận. Trong thực tế cha
mẹ chỉ muốn giúp đem lợi ích lại cho ta. Phải nhìn xa, nhìn
về lâu về dài. Cha mẹ thầy cô chỉ trích, và ta lấy làm khó chịu.
Chỉ về sau ta mới thấu hiểu lý do. Pháp hành cũng vậy. Sau khi
thực hành một thời gian lâu dài quý vị sẽ thấu hiểu. Những thiền
sinh quá thông minh chỉ thực hành trong một thời gian ngắn rồi bỏ
đi. Họ không bao giờ học hỏi được gì.
Ta phải tách rời, bỏ đi bẩm tính
thông minh của mình. Nếu nghĩ rằng mình giỏi hơn người khác
ta sẽ đau khổ. Rất đáng tiếc.
Không cần phải bực mình, khó chịu. Chỉ nhìn.
Vấn: Bạch Sư,
đôi khi con có cảm tưởng như từ ngày xuất gia con càng gặp
khó khăn nhiều hơn trước.
Ðáp: Sư biết rằng vài người trong quý vị ở
ngoài đời có cuộc sống vật chất đầy
đủ tiện nghi và, nhìn từ bên ngoài, hình như có nhiều tự do
hơn. Hiện nay quý vị đang sống tương
đối khắc khổ. Do đó, trong khi
thực hành vị đạo Sư thường để cho quý vị chờ đợi lâu, từ giờ nầy
sang giờ khác. Vật thực và khí hậu ở đây cũng khác với khí
hậu và vật thực ở quê nhà quý vị. Tất
cả mọi người đều phải trải qua giai đoạn thực tập như vậy.
Ðây là sự đau khổ có tác dụng chấm
dứt đau khổ. Ðó là pháp tu học của quý vị. Khi bực mình,
nổi giận và buồn tủi thì đó là cơ hội lớn lao để thấu hiểu cái tâm
của mình. Ðức Phật dạy rằng ô nhiễm là thầy của ta.
Sư xem tất cả thiền sinh đệ tử là con.
Sư chỉ có tâm Từ trong lòng và chỉ nghĩ đến tình trạng an lành của
quý vị. Có lúc hình như Sư làm cho quý vị buồn phiền hay đau
khổ, nhưng đó chỉ vì lợi ích của chính quý vị. Sư biết rằng
vài người trong quý vị học rộng hiểu sâu. Người ít học và có kiến
thức khiêm tốn về những sự vật ở ngoài đời hành thiền có phần dễ
dàng. Cũng như quý vị -- những người Tây Phương -- có một ngôi nhà
thật rộng, cần phải quét dọn sạch sẽ. Công việc bề bộn.
Nhưng khi đã dọn dẹp quét rửa
xong quý vị sẽ có chỗ ở rộng rãi, ngăn
nắp, đầy đủ nào nhà bếp, nào thư viện, phòng khách v.v...
Quý vị phải nhẫn nại. Nhẫn nhục và kiên trì là hai đức tính thiết
yếu cho pháp hành. Khi còn là nhà sư trẻ tuổi Sư không phải khổ
cực như quý vị. Sư nói tiếng mẹ đẻ và
ăn thức ăn bổn xứ. Vậy mà đôi khi Sư cũng chán nản thất
vọng, muốn hoàn tục, thậm chí có lúc muốn quyên sinh.
Loại đau khổ nầy phát sanh từ lối nhìn,
lối thấy, lối hiểu biết sai lầm. Một
khi đã thấy được chân lý ta không còn ôm ấp những quan kiến
riêng tư gì nữa. Tất cả đều trở nên
thanh bình an lạc.
Vấn: Bạch Sư, do nhờ hành thiền con đã đạt
đến trạng thái tâm an lạc. Giờ
đây con phải làm gì?
Ðáp: Như vậy là tốt. Làm cho tâm thanh bình
an trụ. Rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm. Khi tâm
không an lạc cũng phải nhìn cái tâm không an lạc ấy. Rồi sẽ thấy
an lạc thật sự.
Tại sao? Vì lúc bấy giờ ta sẽ nhận thấy vô
thường. Chí đến trạng thái an lạc
cũng phải được xem là vô thường. Nếu bận bịu luyến ái, bám
vào trạng thái an lạc ta sẽ đau khổ khi nó không còn nữa. Hãy dứt
khoát buông trôi tất cả, chí đến trạng thái an lạc thanh bình.
Vấn: Bạch Sư,
có phải chăng Sư nói rằng Sư sợ những thiền sinh quá siêng năng?
Ðáp: Ðúng vậy. Sư sợ thiệt. Sư sợ họ quá
cần mẫn siêng năng. Họ cố gắng quá sức mà không có trí tuệ.
Họ tự đưa đẩy vào hoàn cảnh
đau khổ không cần thiết. Vài người trong
quý vị quyết định giác ngộ, cắn răng chiến đấu không ngừng.
Ðó là nỗ lực quá độ. Mỗi người đều
giống nhau. Họ không thấu hiểu bản chất thiên nhiên của sự
vật. Tất cả các pháp hữu vi đều vô
thường. Tâm và thân là pháp hữu vi. Chỉ giản dị nhìn nó mà
không dính mắc bám vào.
Có những người nghĩ rằng họ biết. Họ chỉ trích,
họ tò mò quan sát, họ phán đoán. Ðược. Ðể cho họ có những ý kiến.
Sự phân biệt và so sánh ấy là nguy hiểm.
Cũng như con đường có khúc quanh thật
gắt. Nếu nghĩ rằng người khác
dỡ hơn, giỏi hơn, hay bằng ta, ta đã đi lệch ra khỏi khúc quanh.
Phân biệt và so sánh chỉ dẫn ta đến
đau khổ.
Vấn: Bạch Sư,
con đã hành thiền trong nhiều năm nay.
Tâm con đã mở rộng và an lạc
trong hầu hết các trường hợp. Giờ đây
con muốn quay trở lại hành những tầng Thiền (Jhàna) cao
hơn.
Ðáp: Tốt lắm. Ðó là đường lối tu tập có lợi
ích. Nếu đã có trí tuệ thì
không còn sợ dính mắc trong các trạng thái hỷ lạc của tâm vắng
lặng nữa. Trường hợp nầy cũng như mình muốn ngồi thiền trong một
thời gian lâu dài. Thực tập như vậy là tốt, nhưng trong thực tế,
pháp hành không liên quan đến oai
nghi đi, đứng, hay nằm, ngồi.
Vấn đề ở đây là nhìn thẳng vào tâm. Ðây là trí tuệ.
Khi đã quan sát và thấu hiểu
cái tâm, ta có đủ trí tuệ để hiểu
biết giới hạn của tâm định, hoặc của sách vở.
Nếu đã có hành và đã thông
suốt hạnh buông bỏ, ta sẽ có thể quay trở về chồng sách vở.
Sách sẽ như món ăn tráng miệng ngon
ngọt. Nó sẽ giúp ta chỉ dạy người khác. Hoặc ta có thể trở
lại hành các pháp thiền đưa đến tâm
toàn định. Ta đã có đủ trí tuệ
để thông hiểu và để không bám níu vào bất luận gì.
Vấn: Bạch Sư, xin Sư vui lòng tóm lược
những điểm chánh của buổi thảo luận hôm nay.
Ðáp: Phải tự quán chiếu. Biết mình là ai.
Hiểu biết thân và tâm của mình bằng cách chỉ giản dị nhìn.
Khi ngồi, khi ngủ, khi ăn, hãy
biết giới hạn của mình. Hãy xử dụng trí tuệ. Pháp hành không phải
để thành tựu bất luận gì. Chỉ giác tỉnh chú niệm những gì xảy
diễn. Toàn thể pháp hành của ta là nhìn thẳng vào tâm. Ta sẽ nhận
thức: khổ, nhân sanh khổ, và sự chấm dứt đau khổ. Nhưng phải nhẫn
nại. Thật nhẫn nại và thật kiên trì. Dần dần ta sẽ học. Ðức Phật
dạy rằng đệ tử phải theo bên cạnh vị thầy của mình ít nhất là năm
năm. Ta phải học giá trị của
hạnh bố thí, của đức nhẫn nại và của tâm đạo nhiệt thành.
Không nên thực hành quá khắc khổ. Không nên để
dính kẹt trong hình thức bề ngoài. Tò mò nhìn xem người khác làm
gì để chỉ trích là một thói hư, một tật xấu.
Chỉ sống đơn giản, hồn nhiên,
và nhìn sự vật. Ðối với hàng xuất gia, giới luật quả thật rất quan
trọng. Giới tạo hoàn cảnh hòa hợp và đơn giản. Hãy xử dụng đúng
mức các giới luật ấy. Nhưng nên ghi nhớ, điểm chánh yếu của giới
luật là nhìn xem tác ý, cái chủ tâm của mình. Phải có trí tuệ.
Không nên phân biệt và so sánh. Ta có lấy làm khó chịu và phiền
giận một cái cây bé nhỏ trong rừng vì nó không ngay thẳng và to
lớn như những cây khác không? Ðó là điên cuồng. Không nên phán
đoán người khác. Trong đời có đủ hạng
người. Không cần phải khuân
vác gánh nặng mong muốn đổi thay tất cả.
Vậy, hãy nhẫn nại. Nghiêm chỉnh thọ trì giới
luật. Sống giản dị và hồn nhiên. Nhìn cái tâm. Ðó là pháp hành của
chúng ta. Nó sẽ dẫn ta đến những
trạng thái tâm không chấp ngã mà hoàn toàn vị tha. Ðến
thanh bình an lạc.
-ooOoo-
|