|
|
Nguyên tác: Seeing the Way - Buddhist Reflections on the Spiritual
Life,
An anthology of teachings by English-speaking disciples of Ajahn
Chah.
Amaravati Publications, England, 1989.
|
Mục
Lục |
Lời Giới Thiệu
Lời Người Dịch
[01]
Ajahn Chah: Tiểu sử - Lá thư từ xứ Thái - Vấn đáp.
[02]
Đại đức Sumedho: Con đường như thật.
[03]
Đại đức Pabhakaro: Khiêm cung.
[04]
Đại đức Khemmadhammo: Đối diện thương đau
[05]
Đại đức Jagaro: Ư nghĩa của hạnh phúc
[06]
Đại đức Pasanno: Điều quan yếu của đời sống
[07]
Đại đức Anando: Từ tâm và nội quán
[08]
Đại đức Tiradhammo: Pháp hỷ tối thắng
[09]
Đại đức Viradhammo: Tri kiến như thật
[10]
Đại đức Gavesako: Hăy nói về đau khổ
[11]
Đại đức Brahmavamso: Trí tuệ giác ngộ
[12]
Đại đức Sucitto: Tinh thần Quan Âm và h́nh ảnh con voi
[13]
Đại đức Munindo: Sống tỉnh thức
[14]
Đại đức Puriso: Ánh đuốc Phật-đà
[15]
Đại đức Kittisaro: Thiền định giữa đời thường
[16]
Đại đức Bodhipalo: Hành hương Phật tích
[17]
Đại đức Amaro: Hăy t́m một lư tưởng sống
[18]
Đại đức Thanavaro: Định nghĩa về hạnh phúc
[19]
Đại đức Jayasaro: Ngày xưa sư phụ
[20]
Đại đức Vajiro: Nếp sống chia sẻ
[21]
Lá thư cho những người t́m đạo
-ooOoo- |
Lời
Giới Thiệu
Người Tây Phương đă có những công tŕnh nghiên
cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả
người Anh, người Đức, tiêu biểu nhất là những hội viên của Pali
Text Society và Royal Asiatic Academy đă để lại những dịch phẩm,
tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới.
Một số cá nhân đi xa hơn, trở thành những tu sĩ Tây phương tại các
quốc gia Phật giáo. Họ t́m thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi
sống giữa những người Phật tử Á Đông .
Cuối thế kỷ 20, lịch sử Phật giáo sang trang
một cách bất ngờ. Khởi nguồn từ một vùng đất nghèo cằn cỗi của
vùng đông bắc Thái Lan, tỉnh Ubon-rachathani. Ngày ấy, vị thiền sư
tiếp một khách Tăng trẻ từ xa đến xin được tham học đạo thiền. Đó
chỉ là lời khẩn khoản b́nh thường. Nhưng chính vị khách Tăng không
giống bất cứ thiền sinh nào đă đến cầu pháp từ trước. Là một người
Hoa Kỳ, sau khi tốt nghiệp đại học, ông đă chọn phục vụ trong
chương tŕnh Peace Corp. Nhân duyên đưa đẩy ông tiếp xúc với đạo
Phật, sau đó trở thành Tăng sĩ Phật giáo. Nghe danh Ngài thiền sư,
vị tu sĩ người Mỹ nầy đến xin được hướng dẫn. Câu trả lời của vị
thiền sư là: "Được, nhưng với điều kiện là phải chấp nhận sự đối
xử như bao nhiêu người khác chứ không có một biệt đăi nào." Câu
nói chừng như vô tâm ấy về sau đă nở hoa kết trái. Kéo theo là một
loạt những người ngoại quốc đến từ nhiều quốc gia khác biệt ngôn
ngữ, văn hóa cùng t́m về tu học. Họ học Phật, tu thiền khách quan,
không qua ảnh hưởng của văn hóa địa phương. Là người mới vào đạo,
họ chân thành tinh tấn. Ngày nay, những tu viện của họ răi rác ở
Âu Châu, Bắc Mỹ và Úc Châu đă xây dựng nền tảng cho tổ chức Tăng
lữ Tây Phương. Họ học ở Đông phương rất nhiều mà cũng có nhiều
điều để chúng ta học lại ở họ. Người Phật tử Việt tại quốc gia tự
do chắc hẳn có nhiều lợi lạc qua những kinh nghiệm quí báu ghi
chép trong quyển sách này.
Nguyên tác được thực hiện như một sưu tập những
tùy bút của nhiều Tăng sĩ. Dĩ nhiên không có dụng ư sáng tác một
tác phẩm văn học. Tuy vậy đọc bản dịch chúng ta sẽ thưởng thức
được bút pháp tài hoa của người chuyển ngữ. Điều nầy chắc chắn làm
tăng phần giá trị của tác phẩm .
Mặc dù dịch giả có hơn mười tác phẩm, dịch phẩm
đă thực hiện, đây chỉ mới là công tŕnh thứ hai được xuất bản tại
Hoa Kỳ. Ước mong bản dịch nầy sẽ tạo thiện duyên cho những công
tŕnh khác sớm được xuất bản. Tin rằng độc giả xa gần cùng chia sẻ
tâm trạng náo nức chờ đợi ấy của chúng tôi sau khi đọc quyển sách
nầy .
Pháp Luân, mạnh đông Kỷ Măo
Sa Môn Thích Hộ Giác
Lời
Người Dịch
Cuốn sách được chọn dịch, ấn hành (tại Việt
Nam) rồi sửa chữa, tái bản (tại Hoa Kỳ) chỉ v́ một nội dung giáo
lư dễ đọc, có thể không làm phiền ai hết. Sách được viết thiệt thà,
với tinh thần trách nhiệm và không hề đứng trên một lập trường nào
để sùng bái hay đạp đổ ai. Đó chẳng là những ǵ mà từng người
chúng ta vẫn mong đợi đấy sao?
Cuốn sách được chuẩn bị tái bản vào một ngày
giáp đông. Ngồi giữa trời đất phương Tây đọc lại từng trang sách
của những tác giả Tây Phương viết về phương Đông, trong một thoáng
mơ hồ, tôi đă thấy ḿnh có lỗi. Lỗi với Đời v́ chưa hề đem vào cơi
phù sinh này một đóng góp nào. Lỗi với Đạo v́ manh áo truyền thừa
trên vai chỉ vừa đủ che kín những vọng niệm hăy c̣n trùng điệp. Và
có lỗi với chính ḿnh v́ đă nửa đời vẫn chưa có nổi một đạo nghiệp:
dấn thân không t́m ra chỗ đến, quy ẩn không có được một chốn về .
Những trang sách này thật ra đă đề nghị với tất
cả chúng ta một nếp sống không lầm lỗi, không hối hận. Giữa cơi vô
thường, ǵ cũng ngắn ngủi, mong manh. Hăy cầm lấy cuốn sách như
một ngọn lửa sưởi ấm và chia sẻ. Cuộc đời đă bắt đầu vào Đông rồi
đó. Tuyết đă rơi trên những tim người, gió đă lùa qua những ḷng
người. Thiên niên kỷ mới sắp đến, chúng ta lại đang đi vào một mùa
đông khác ...
Houston, mùa Đông 1999
Dịch giả cẩn bút
Giác Nguyên
-ooOoo-
[01]
Thiền sư Ajahn Chah
Lá
thư từ xứ Thái
Ngài sinh ngày 17 tháng 6 năm 1918 tại một ngôi
làng nhỏ nằm gần thành phố Ubon Rajathani thuộc Đông Bắc Thái Lan.
Học xong tiểu học trường làng, Ngài đi tu sa-di ba năm rồi trở về
phụ giúp gia đ́nh. Gia đ́nh Ngài sống bằng nghề nông.
Năm tṛn hai mươi tuổi, ngày 26 tháng 04 năm
1939, Ngài quyết định xuất gia trở lại và lần này tu luôn giới
phẩm Tỳ kheo. Xuất gia xong, Ngài được tham dự các khóa học giáo
lư và ngôn ngữ Pali. Năm năm sau, phụ thân ngài qua đời và cũng
vào lúc này Ngài nhận được mănh bằng tốt nghiệp xuất sắc môn Pali.
Một phần do tác động tâm lư từ cái chết của cha, Ngài bất chợt
nh́n thấy cái buồn thiu vô vị của cuộc sống và thế rồi, từ bỏ mọi
thứ đang có. Ngài quyết định thực hiện một cuộc đi đường dài của
một người du sĩ.
Để tới được Trung bộ Thái Lan, Ngài đă trải qua
400 km bằng đôi chân gió bụi. Trong suốt thời gian ấy, không ít
đêm Ngài phải ngủ lại giữa rừng sâu và thức ăn đi đường chỉ có
được bằng cách khất thực tại những xóm làng ḿnh đi qua. Rồi như
một cơ duyên hăn hữu, ngài đă t́nh cờ ghé ngang một ngôi chùa và
chính tại đây được tham kiến thiền sư Ajahn Mun Bhùridatta, một
thiền sư thời danh và cũng vô cùng lỗi lạc.
Ngài Ajahn Chah quyết định dừng bước để cầu
pháp. Ngài học cẩn thận pháp môn thiền định với thầy nhưng tự đáy
ḷng chẳng hiểu sao cứ thấy có ǵ đó bất ổn. Dường như hiểu được
gút mắt này trong ḷng Ngài nên thiền sư Ajahn Mun đă gợi ư một
vấn đề hết sức quan trọng: "Giáo lư của Đức Phật tuy được tŕnh
bày bao la nhưng để đi vào đáy sâu nội tâm của mỗi người th́ chỉ
có một con đường duy nhất mà cũng hết sức đơn giản đó là một khi
có được khả năng chánh niệm đối với những ǵ diễn ra trong ḷng
ḿnh th́ tất cả sự thật tự lộ diện ...". Chính câu nói khai thị
này đă phơi mở cho Ngài Ajahn Chah một lối về ngắn nhất với pháp
môn Thiền Quán.
Suốt bảy năm dài sống hạnh đầu đà trong rừng
sâu, ngài Ajahn Chah đă có nhiều cơ hội học hiểu bản chất cuộc đời
qua quá nhiều thử thách chết người trong nếp sống thường nhật.
Những khu rừng Ngài đi qua đều nổi tiếng là nguy hiểm với những
mănh thú và độc trùng. Có đêm kia, giữa rừng già hoang vu, Ngài đă
một ḿnh ngồi thiền dưới cơn băo lớn để có thể thấm thía tận cùng
niềm cô đơn vô biên của kiếp sống không nhà.
Năm 1954, sau những tháng ngày trôi dạt, Ngài
đă được mời về thăm lại quê hương, cũng vẫn ngôi làng nhỏ của ngày
xưa. Thiền sinh các nơi t́m về cầu pháp ngày càng đông dần và một
ngôi thiền viện được ra đời trong một cánh rừng phụ cận, một nơi
cũng nổi tiếng ma thiêng nước độc, và đó chính là thiền viện Wat
Pah Pong hôm nay để từ cơ sở này, rất nhiều chi nhánh tiếp nối
nhau thành lập.
Năm 1967, một vị sư người Mỹ đă t́m đến Wat Pah
Pong. Vị này chỉ mới tu thôi và ngay mùa an cư đầu tiên đă chọn
một ngôi chùa ở sát biên giới để tu thiền. Đó chính là đại đức
Sumedho. Dù mọi công phu không phải là vô bổ nhưng đại đức vẫn cảm
thấy ḿnh cần có một người thầy hướng dẫn cho đời tu được trọn vẹn
hơn. Vào đúng thời điểm đó, thật t́nh cờ, một vị sư đệ tử của Ngài
Ajahn Chah đến viếng ngôi chùa này và gặp gỡ Sumedho. Cũng may, vị
sư người Thái đó cũng biết nói chút ít Anh ngữ, rồi vị này đă giới
thiệu ít nhiều về thầy của ḿnh với Sumedho. Thế là đại đức
Sumedho lập tức lên đường tới tận Wat Pah Pong cùng vị sư người
Thái mới quen.
Ngài Ajahn Chah đă nhiệt t́nh tiếp nhận sư
Sumedho nhưng trước sau vẫn không quan tâm ǵ tới đời sống vật
chất của người học tṛ da trắng này. Có nghĩa là sư Sumedho vẫn cứ
phải đi khất thực để sống với những thức ăn thật khó quen miệng và
dĩ nhiên cũng được hướng dẫn phép thiền theo cách vẫn áp dụng cho
các thiền sinh bản xứ.
Phương pháp dạy thiền của Ngài Ajahn Chah tuy
có phần khắt khe nhưng có một nội dung sâu sắc nhất định. Ngài
luôn đặc biệt nhấn mạnh mục đích tĩnh lặng để thấu thị thực tại
xuyên qua tất cả lao dịch chấp tác mỗi ngày và tinh thần thứ hai
cho mọi sinh hoạt của tất cả thiền sinh luôn đặt nền tảng trên một
từ "Giới Luật".
Theo thời gian, cùng với những cơ duyên, ngày
càng có thêm nhiều những nhà sư Tây phương t́m đến Wat Pah Pong.
Lúc này đại đức Sumedho đă được năm hạ tỳ kheo cùng với một khả
năng khá vững chải. Ngài Ajahn Chah quyết định giao phó cho đại
đức trách nhiệm trông coi và hướng dẫn các nhà sư da trắng đó.
Mùa hè năm 1975, ngài Sumedho cùng các vị sư
Tây phương đă tạm thời rời Wat Pah Pong để đến hành thiền trong
một cánh rừng cách đó không xa. Thật bất ngờ khi dân chúng địa
phương hết ḷng hoan hỷ yêu cầu các vị tiếp tục lưu trú dài hạn và
chính ngài Ajahn Chanh cũng đă cho phép các vị lựa chọn. Thế là
thiền viện Wat Pah Nanajat (đa chủng tộc) đă được ra đời và Ngài
Sumedho trở thành viện chủ ngôi tu viện đầu tiên dành cho các nhà
sư Tây Phương.
Năm 1977, được Giáo Hội Phật Giáo Anh Quốc mời
sang thăm viếng, ngài Ajahn Chah đă dắt đại đức Sumedho và đại đức
Khemadhammo đi cùng. Thấy ở Anh Quốc có nhiều điều kiện hoằng
dương, Ngài đă để hai người học tṛ ở lại chùa Hampstead ở Luân
Đôn rồi trở về Thái Lan. Đến năm 1979 Ngài lại trở qua Anh khi hai
vị đại đức học tṛ đă rời Luân Đôn đi xây dựng thiền viện
Chithurst ở Sussex. Sau đó Ngài c̣n sang tận Hoa Kỳ và Canada để
thuyết giảng.
Chấm dứt chuyến đi, trở về Thái Lan vào năm
1981, sức khỏe của Ngài lại bắt đầu sa sút ngày một nhiều bởi
chứng tiểu đường. Trong t́nh trạng đáng ngại như vậy, Ngài vẫn cố
gắng b́nh tâm và luôn có ư lấy chính tấm thân của ḿnh làm bài học
thiền định cho các đệ tử. Cuối mùa an cư năm 1981, Ngài gần như
không c̣n nói chuyện được nữa, các buổi thuyết giảng thưa dần và
sau cùng Ngài coi như không thể cử động, phải nằm một chỗ nhưng
sức mạnh nội tâm th́ vẫn vô cùng mănh liệt.
Ngài viên tịch vào tháng Giêng, 1992.
Lá
Thư Từ Xứ Thái
Năm nay tôi nhập hạ ở chùa Tum Saeng Pet để
thay đổi không khí cho cái sức khỏe đang xuống dốc. Bên cạnh tôi
lúc này có mấy vị sư đệ tử người Tây Phương. Sư Pabhàkaro, sư
Santo, sư Pamutto, sư Michael, sa di Guy cùng một số chư Tăng,
Phật tử thiền sinh người Thái. Ai cũng tu thiền tiến bộ hết. Đó là
niềm vui lớn cho tất cả chúng ta và bỗng nhiên bây giờ tôi thấy
khỏe lại ít nhiều, đủ để ngồi lại ghi âm lá thư cho các vị bên đó.
V́ sức khỏe không cho phép nên tôi không sang
thăm Anh quốc được nhưng những tin tức về Phật sự của các sư bên
đó vẫn làm tôi thấy vui hoài. Điều khiến tôi mừng nhất là sư
Sumedho bây giờ đă có thể làm Ḥa thượng cho người khác xuất gia.
Phật giáo bên Anh như vậy là đă có cơ may phát triển rồi đó. Tôi
cũng mừng khi được biết các vị đại đức và ni tu thân quen hiện
đang sống tại thiền viện Chithurst với sư Sumedho. Tôi mong mỏi
các vị luôn có nhiều sức khỏe, sống ḥa thuận, tương trợ trong đời
tu và hoạt động Phật sự.
Thông qua các đàn tín ở Anh và Thái Lan, tôi
được biết khá nhiều về tiến độ xây dựng thiền viện Chithurst. Nghe
đâu ở đó bây giờ đă có đủ pḥng ốc tiện nghi. Tôi cứ nhớ lại một
tuần lễ sống ở Chithurst mà ngán! Hôm nay th́ cả ngôi chánh điện
lẫn giảng đường đều hoàn tất. Nhưng cũng nhớ đấy, cứ lo xây cất
măi th́ cũng không ổn đâu, lối sinh hoạt đó có vẻ hơi h́nh thức
... Tôi cũng hiểu là vị nào mang trọng trách trụ tŕ hay viện
trưởng cũng đều phải ít nhiều bận rộn trong việc xây dựng cơ sở,
kể cả chùa Wat Pah Pong ngày xưa cũng đă phải bắt đầu với những đa
đoan đó mà. Nhưng các vị cũng đừng quên rằng công việc nhiêu khê
luôn quấy rầy đời sống tu tập và hoằng dương của người xuất gia mà
điều quan trọng nhất là nếu cứ đầu tắt mặt tối như vậy chúng ta
làm sao nói chuyện với thiên hạ được?!
Tuy vậy tôi tin tưởng ở sư Sumedho rất nhiều,
tin sư sẽ luôn biết tự dàn xếp. Vấn đề thực ra th́ cũng nhỏ thôi,
chẳng có ǵ đáng nói nhiều, nhưng nhớ chừng vẫn hay hơn. V́ mọi
vấn đề luôn là dễ hay khó ngay tự cách nh́n của chúng ta.
Trách nhiệm trụ tŕ hay viện chủ chẳng khác ǵ
việc lắp đặt một thùng rác. Bực ḿnh v́ mấy thứ rác rưới nên người
ta mới nghĩ ra cái thùng rác để hết phiền. Thế rồi trên thực tế
chính người lắp đặt thùng rác lại cũng là kẻ giữ rác! Có cơ sở rồi
cai quản nó th́ phiền lắm. Từ chùa Wat Pah Pong đến các ngôi tịnh
xá thời Đức Phật cũng thế, đều là những chỗ để chuốc phiền và trăm
thứ rác rến đắng cay dĩ nhiên cứ nhắm vào vị trụ tŕ, viện chủ mà
trút xuống!
Trong những hoàn cảnh đó, chúng ta đ̣i hỏi phải
có một cái nh́n thật xa, thật sâu để có thể thu xếp, ổn định mọi
sự. Và có thể nói rằng đức tính quan trọng nhất cho đời tu chúng
ta chỉ nằm trong chữ Nhẫn. Mỗi một chữ đó thôi nhưng sâu sắc và
cần thiết vô cùng.
Đúng là các công tŕnh xây dựng trú xứ ở
Chithurst hôm nay đă hoàn tất nhưng xem ra vẫn c̣n một chuyện vẫn
chưa xong xuôi đấy, thậm chí nó c̣n măi măi là một vấn đề phải
giải quyết dài hạn. Ở đây tôi muốn nói đến việc duy tŕ những ǵ
ḿnh đă tạo dựng. Đúng thế, cất chùa th́ dễ mà giữ chùa th́ lại
rất khó. Điều này cũng giống như việc tế độ cho một người xuất gia
rồi tiếp tục nuôi dạy họ. Cả hai việc khác nhau nhiều lắm. Nhưng
suy cho cùng th́ chẳng sao cả, vấn đề tuy có đôi chút khó khăn đấy,
miễn sao ta biết thu xếp mọi sự cho thật giản dị là được rồi. Từ
quan niệm sinh hoạt này, tôi rất mong các vị hăy v́ tiền đồ Phật
pháp ở Chithurst mà cùng nhau dốc sức.
Tôi hy vọng những ǵ ḿnh nói ra hôm nay trong
cuốn băng này sẽ mang lại cho các vị bên đó một chút ấm ḷng và
khích lệ. Gặp bất cứ người Thái nào có liên hệ bên Anh Quốc tôi
cũng đều khuyên họ đến viếng thăm thiền viện Chithurst cả. Tôi tin
họ sẽ lấy làm thú vị với một chi nhánh thiền viện như vậy ở đó.
Đổi lại, bây giờ cũng có rất nhiều khách ngoại quốc t́m tới viếng
chùa Nanajat và nhờ vậy, tôi cũng có được ít nhiều tin tức về các
vị. Tôi muốn nhắc lại rằng điều làm tôi vui nhất chính là thấy
được mối quan hệ mật thiết giữa ba chùa: Wat Pah Pong, Wat Nanajat
và thiền viện Chithurst.
Đó là tất cả những ǵ tôi muốn nói. Hăy nhận
lấy tất cả tấm ḷng của tôi dành cho các vị. Mong sao cho các vị
luôn an lành, sống ḥa hợp và tương trợ. Nguyện cầu hồng ân tam
bảo luôn sống măi trong tâm hồn các vị. Chúc sức khỏe từng người.
Ajahn Chah
Ư Nghĩa Thiền Định
(Gồm một thời pháp thoại vấn đáp giữa thầy tṛ thiền sư Ajahn
Chah tại Chùa Gor Nork, Thái Lan, mùa an cư 1979, trong đó các cử
tọa hầu hết đều là người nói tiếng Anh)
-ooOoo-
HỎI: Có phải pháp môn thiền định mà Ngài vẫn
nhắc đến là nói về cách ngồi thiền hay cách suy tư về một đề tài
thiền định chuyên biệt nào đó như quán về 32 thể trược chẳng hạn?
ĐÁP: Thật ra những điều đó sẽ không c̣n cần
thiết nữa đối với nội tâm đă thực sự tĩnh lặng. Một khi tâm tư ta
đă được dàn xếp một mức độ b́nh đạm nhất định nào đó th́ thực tại,
tức đối tượng của trí tuệ Thiền Quán sẽ tự hiển hiện một cách rơ
ràng. Trong một sự tập trung đúng mức của nội tâm, mọi khái niệm
khu biệt, đánh giá về cái tốt xấu, dở hay ... sẽ biến mất. Các vị
đừng ngồi đó mà suy nghĩ, tính toán: "Cái này giống cái kia, cái
kia giống cái nọ". Cái đó chỉ là cái vỏ ngoài của thiền định.
Thiền định tuyệt đối không chỉ có nghĩa là suy nghĩ, mà hơn vậy,
đó chính là sự tĩnh lự, hay khả năng thấu thị trong im lặng. Cứ tự
nhiên mà sống nhưng điềm tĩnh quan sát từng hiện hữu thông qua
những so sánh khách quan. Con đường này tuy vẫn có vẻ chưa rốt ráo
cho lắm nhưng cũng ít nhiều cho ta một cái nh́n như thật.
HỎI: Rơ ràng là trong lúc thiền định về danh
sắc, chúng tôi đă Suy Nghĩ, Tư Tưởng. Liệu những Suy Nghĩ, Tư
Tưởng đó có dẫn đến trí tuệ nội quán và đây có phải là pháp môn
Vipassanà không?
ĐÁP: Đúng là trong Thiền Quán trước sau chúng
ta đều phải Suy Nghĩ, Tư Tưởng. Nhưng với một trí tuệ chín chắn
th́ những Suy Nghĩ, Tư Tưởng mang tính chất Ngă chấp sẽ bị đ́nh
chỉ. Cho dù đôi lúc ta cũng phải bắt đầu mọi sự bằng thái độ của
một chủ thể nhưng chẳng sao cả, mọi vọng niệm không cần thiết rồi
sẽ qua đi.
HỎI: Ngài thường nhấn mạnh vai tṛ của Định (Samàdhi)
trong tiến tŕnh tu tập Thiền Quán. Vậy thế nào là Định theo định
nghĩa của Ngài?
ĐÁP: Đó là sự tĩnh lặng cần thiết và kịp thời
trong từng khoảnh khắc sinh diệt của ư thức.
HỎI: Có phải Ngài muốn nói đến sự hết ḿnh với
mỗi phút giây hiện tại, không bận tâm ǵ đến quá khứ, tương lai?
ĐÁP: Nếu có nghĩ về quá khứ, tương lai bằng một
ư thức rơ ràng về bản chất như thật của chúng ta th́ vẫn là tốt,
miễn sao ta không bị chúng bắt giữ, đồng thời cũng hăy xem chúng "chẳng
là ǵ cả" để không chấp thủ chúng. Thấy được Tư Tưởng là Tư Tưởng,
đó chính là trí tuệ Thiền Quán. Đừng đặt hy vọng vào bất cứ Tư
Tưởng nào cũng như bất kỳ cái nào thuộc Tư Tưởng. Chỉ nên ghi nhận
rằng chúng đều là những ǵ đang sanh ra và sẽ mất đi. Hăy nh́n
ngắm mọi thứ một cách đơn giản, chúng ra sao th́ thấy như vậy,
không cố đi t́m một chủ thể nào trong đó cả: Hạnh phúc là Hạnh
phúc, Đau khổ là Đau khổ. Thấy được như vậy ta sẽ chấm dứt mọi
hoài nghi.
HỎI: Tôi vẫn chưa hiểu ư Ngài. Xin nhắc lại
Thiền có phải là Tư Tưởng không ạ?
ĐÁP: Tư Tưởng đối với hành giả chỉ là một thứ
công cụ thôi, c̣n cái Hiểu Biết được hành trang của Tư Tưởng th́
tuyệt nhiên không phải là Tư Tưởng (theo nghĩa thông thường). Cái
Hiểu Biết đó giúp ta không bị Tư Tưởng đánh lừa. Chúng ta hăy hiểu
rằng tất cả Tư Tưởng chỉ đơn giản là những vận động của ư thức,
c̣n cái Hiểu Biết kia chẳng dính dáng ǵ tới tư tưởng cả. Các vị
nghĩ ǵ về cái gọi là Ư Thức, Tư Tưởng hay những vận động của
chúng? Chúng ta đang nói chuyện về ư thức, những hoạt động của ư
thức và tôi muốn nhấn mạnh rằng Tư Tưởng chỉ là những vận động
mang tính tập quán của ư thức. Không có một ư thức Chân Như nào cả,
tất cả chỉ mang ư nghĩa của cái Đang Là, không đụng chạm ǵ với
vấn đề thời gian.
Chỉ t́m hiểu vấn đề này bằng một cuộc đối thoại
suông thế này, ta không đi đến đâu cả. Trước hết, chúng ta phải
thấu đáo cho bằng được ba pháp ấn căn bản của pháp môn Thiền Quán
là Vô Thường, Khổ Năo và Vô Ngă. Ta phải dùng Tư Tưởng để chú ư
đến bản chất thật sự của những ǵ vẫn luôn xảy ra. Thành tựu tâm
linh có được từ công phu này chính là trí tuệ và nếu đó là khả
năng trí tuệ như thật th́ có nghĩa là ta đă liễu ngộ được Níp Bàn,
thấy được Tánh Không (theo đúng tinh thần truyền thống). Và sự
liễu ngộ này cũng vẫn là một h́nh thức Tư Tưởng, có điều lúc này
nó chẳng c̣n ǵ để ta phải bận tâm nữa.
HỎI: Làm thế nào để chúng ta có thể đạt đến
tŕnh độ như Ngài vừa nói, mà theo chúng tôi có thể gọi đó là cái
Chơn Tâm?
ĐÁP: Các vị luôn sống và làm việc bằng chính Tư
Tưởng mà ḿnh có thể, đúng chưa? Hăy thấy rằng tất cả những ǵ xảy
ra đều luôn bất toàn, và rỗng tuếch. Hăy chiêm ngắm tinh tường để
thấy rằng thật ra chẳng có một chỗ nào là chỗ hiện hữu cho bất cứ
cái ǵ. Thấy được chúng là vật vô xứ nên ta vô chấp. Đó là ư nghĩa
trọn vẹn của tánh Không. Khi phát hiện ra bất cứ cái ǵ xảy đến
trong tâm thức, dù nó nhắm tới mục đích ǵ, ta cũng đừng bận tâm
tới bằng một sự hợp tác nào và cũng đừng tự đặt ra một nghi vấn
nào về chúng cả.
Chúng ta hăy quay lại với hai tiếng Chơn Tâm ǵ
đó mà khi năy các vị vừa nhắc đến, hi vọng thông qua chút quan hệ
ngữ nghĩa này ta sẽ hiểu được vấn đề.
Đúng là chúng ta đă nghĩ ra các tên gọi mang
tính thuật ngữ để tiện dụng cho việc học tập và nghiên cứu, nhưng
trước sau ǵ th́ vạn vật cũng cứ là vạn vật dù ta có gọi tên chúng
ra sao đi nữa. Chúng ta lúc này đang cùng ngồi trên một nhà lát đá.
Nó bất động, vô hồn và bên trên chúng ta bây giờ c̣n có một lớp
trần, cũng vẫn là một hiện hữu chẳng dính dáng ǵ tới chúng ta.
Nhưng nếu cần nghĩ về chúng ta th́ lại rắc rối đấy. Cả nền nhà lẫn
trần nhà đều xuất hiện trong đầu óc ta với cùng lúc rất nhiều vấn
đề h́nh thức, cảm giác, kư ức, suy nghĩ. Mà thật ra th́ chúng đâu
có tồn tại theo đúng như những ǵ ta tư tưởng về chúng, áp đặt lên
chúng! Tất cả chỉ là một chuỗi ư thức mang tính tập quán. C̣n cái
nền nhà và trần nhà này th́ vẫn từng phút chuyển hóa sinh diệt
theo nhân duyên, bởi tự chúng sẽ chẳng là ǵ cả.
Trong kinh điển Pàli có kể lại một câu chuyện
nhỏ về trưởng lăo Xá-Lợi-Phất khi Ngài muốn kiểm tra khả năng tu
học của một người đệ tử trước khi cho phép vị này sống hạnh đầu đà.
Trưởng lăo đề nghị vị này hăy cho ḿnh biết sẽ trả lời ra sao khi
có người đặt câu hỏi rằng điều ǵ sẽ xảy ra đến Đức Phật khi Ngài
đă viên tịch: "các uẩn sau khi sinh khởi đều sẽ biến diệt." Được
biết rằng Ngài Xá-Lợi-Phất rất hoan hỷ với câu trả lời và đồng ư
cho người đệ tử được toại ư đi theo con đường ḿnh đă chọn.
Thiền Quán không chỉ là những cuộc đàm luận
bằng miệng về chuyện sinh diệt của vạn hữu. ở đây luôn đ̣i hỏi ở
chúng ta một trí tuệ tự chứng và thực nghiệm. Khi đang ngồi, hăy
đơn giản nhận biết cái ǵ đang xảy ra với ḿnh lúc đó. Chỉ quán
sát chứ không đuổi bắt bất cứ cái ǵ. Thiền Quán không không hề có
nghĩa là trạng thái ư thức bị câu thúc. Sự vận động của trí tuệ
Thiền Quán về thực tại không giống như những vọng niệm phiêu bồng
về cuộc đời, về những vấn đề thế tục. Cho nên chỉ trừ trường hợp
hiểu được yếu tính của Thiền Quán, càng Tư Tưởng mông lung th́ ta
càng dễ rơi vào ngộ nhận.
Sở dĩ ở đây việc phát triển chánh niệm được
nhấn mạnh nhiều lần là bởi v́ tất cả chúng ta đang rất cần đến một
cái nh́n thật rơ ràng về những ǵ đang xảy ra mà tôi vẫn gọi là
cái thực tại. Chúng ta phải hiểu được qui tŕnh vận động của chính
nội tâm ḿnh. Một khi chánh niệm và trí tuệ được song hành th́ mọi
sự chắc chắn sẽ được ổn định. Ta có thể nghĩ rằng đối với một
người hiểu được lẽ đạo sẽ không bao giờ có những hành động nông
nổi, dung tục nhưng nếu chỉ bảo rằng phong cách đó có được từ việc
hiểu thấu lẽ Đạo th́ cũng chưa đủ. Vậy th́ đằng sau động lực đó
c̣n có cái ǵ khác nữa? Đó chính là chánh niệm!
HỎI: Thế nào nghĩa là Ngài đang muốn nói tới
một cái tâm thức nguồn cội trong chính tâm thức này phải không ạ?
ĐÁP: Tôi vẫn chưa hiểu ư ông ...
HỎI: Tôi thấy h́nh như Ngài đang đề cập tới cái
ǵ đó nằm ngoài Ngũ Uẩn, cái đó có thật sao và ngài gọi nó là cái
ǵ?
ĐÁP: Không có CÁI G̀ cả th́ làm sao chúng ta có
thể gọi tên cho cái không có ấy được? Mọi thứ sinh diệt để mà sinh
diệt. Ngay cả sự Hiểu Biết về điều này cũng không thuộc về bất cứ
AI và nó cũng bị biến diệt. Ư thức (cứ tạm gọi thế) không hề là
một cá thể, một con người, một cái Tôi, chẳng là bỉ cũng không là
thử. Ư nghĩa trọn vẹn của nó chỉ dừng lại ở đó, không có ǵ đáng
để ta ước muốn. Tất cả chỉ là một sự mất mát, băng hoại. Thấy được
điều này, tất cả sẽ được chấm dứt, có nghĩa là không c̣n ǵ để nói
nữa.
HỎI: Vậy th́ tôi có thể gọi cái Ngài vừa nói
bằng cái tên là "Ư Thức Nguồn Cội" chứ ạ?
ĐÁP: Nếu ông muốn th́ cứ gọi thế cũng được. Ông
có thể tùy ư, trọn quyền định danh nó miễn sao ông không quên
nguyên lư Nhân Quả vẫn luôn tồn tại ở mỗi hiện hữu. Hăy nhớ rằng
điều này rất quan trọng đấy. Không ứng dụng nguyên lư Nhân Quả
tương quan th́ ta không thể nào có được những ngôn từ hay khái
niệm thích đáng để soi rọi chân lư đâu nhé. Tôi nhắc lại, đây là
điều quan trọng phải hiểu.
HỎI: Xin hỏi Ngài có thể nói cụ thể ở cấp độ
nội tâm thế nào và một chánh niệm ra sao mới có thể đạt tới những
điều Ngài vừa nêu ra không ạ?
ĐÁP: Ông khỏi bận tâm đến điều đó. Khi chưa có
được một khả năng nội tĩnh đúng mức th́ coi như ông vẫn chưa thể
đối điện với những câu hỏi này. Ông cần thiệt phải có một tŕnh độ
nội tĩnh thật sự vững vàng để có thể nh́n thấy những ǵ đang xảy
ra với ḿnh một cách rơ ràng và kịp thời.
Càng đưa ra nhiều câu hỏi chỉ chứng tỏ rằng ông
vẫn đang bị khốn khổ bởi các nghi hoặc. Tôi nhắc lại, ông đang rất
cần tới một sự nội tĩnh để không tiếp tục bị những thắc mắc đó vây
hăm nữa. Chỉ cần thực hiện trọn vẹn công phu Thiền Quán, ông sẽ tự
thấu suốt hết những vấn đề này thôi. Trong khi đó, càng cưu mang
chúng, ông chỉ càng thêm mù mịt. Cuộc đối thoại nào cũng là tốt cả
nếu nó giúp được ít nhiều sức mạnh cho công phu tu tập của ông.
Nhưng cũng phải nhớ rằng đối thoại bằng ngôn từ không thể đưa ông
tới trí tuệ giác ngộ như thật đâu đấy. Chánh pháp không thể được
liễu ngộ qua trung gian nào hết, ông phải tự ḿnh nổ lực mới có
thể liễu ngộ. Đó cũng chính là nguyên tắc tự chứng (paccattam) của
Phật Giáo.
Bỡi nếu ông chỉ sở hữu được những kiến thức mà
chúng tôi trao truyền lại th́ phải nói rằng trách nhiệm của ông
vẫn hăy c̣n nhiều lắm, v́ rơ ràng ông vẫn chưa tự ḿnh thực hiện
điều ǵ cả. Mà nếu c̣n có việc phải làm th́ coi như ông chưa đi
tới đâu hết.
Hăy sống thật đơn
giản bằng cách đặt xuống mọi sự và hiểu rơ những ǵ ḿnh đang làm.
Ông cũng chẳng cần phải cân đong đo đếm mức độ tu tập của ḿnh rồi
bận tâm vớ vẩn. Mọi sự luôn tự có một vị trí và giá trị cho riêng
ḿnh. Bất cứ cái ǵ xảy đến trong cuộc tu, cứ để mặc chúng qua đi.
Ta chỉ việc hiểu rằng cái ǵ cũng là bất toàn và vô thường. Hăy
nhớ thật kỹ, cái ǵ cũng vô thường. Hăy sống trọn vẹn với tinh
thần đó. Đây chính là con đường dẫn tới cái mà ông gọi là Ư Thức
Nguồn Cội đấy!
-ooOoo-
[02]
Đại đức Sumedho
Con Đường Như Thật
Tiểu Sử Tác Giả:
Ngài Sumedho tên thật là Robert Jackman sinh
năm 1934 tại Seattle, Washington. Sau khi tốt nghiệp Đại học, Ngài
đi lính, làm một sĩ quan quân y trong Hải quân Mỹ và đă từng có
mặt trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Rời quân ngũ, Ngài trở lại
học đường và lấy thêm bằng cử nhân văn chương tại Đại học Berkeley
(California). Năm 1963, sau một thời gian làm việc trong Hội Hồng
Thập Tự, Ngài đă bỏ sang Viễn Đông và đứng lớp dạy Anh văn suốt
hai năm trời tại Borneo như một công tác từ thiện.
Ḷng ái mộ Phật Giáo đă đưa Ngài sang viếng
Thái Lan năm 1966. Chính tại đây Ngài đă tu sa-di ở chùa Nong Khai
rồi một năm sau đó (1976) lại thọ giới Tỳ kheo với Ḥa thượng Chao
Khun Rajapreejayamuni. Và năm 1968, gặp được thiền sư Ajahn Chah,
người mà sau này Ngài sẽ theo học thiền mười năm. Vào năm 1974,
sau một chuyến hành hương Ấn Độ với tư cách một vị tŕ hạnh Đầu Đà,
Ngài trở về Thái Lan và được giúp đỡ xây dựng thiền viện Nanajat
rồi trở thành viện chủ ở đó, dù vẫn tiếp tục học hỏi với Ngài
Ajahn Chah.
Năm 1977 nhận được lời mời của giáo hội Phật
giáo Anh Quốc, thiền sư Ajahn Chah đă dẫn theo Ngài Sumedho rồi để
Ngài lại chùa Hampstead ở Luân Đôn để coi sóc một số tăng chúng
tại đây. Năm 1979 chư tăng Anh quốc t́m thêm được một cơ sở hoằng
pháp tại Sussex và thế là tu viện Chithurst ra đời. Đến năm 1984,
vẫn dưới sự điều hành của Ngài Sumedho cũng với một khí thế sôi
động, trung tâm Phật Giáo Amaravati lại được thành lập, nằm ngay
sát Luân Đôn. Sau đó từ miền Bắc đến Tây Nam Anh quốc rồi cả Thụy
Sĩ, Tân Tây Lan, Úc châu đều lần lượt có chi nhánh lan rộng của hệ
thống hoằng pháp do giáo hội Phật Giáo Anh quốc tổ chức.
Bài giảng sau đây là một trong hai bài giảng
đầu tiên của Ngài Sumedho tại trung tâm Amaravati nói trên vào mùa
đông năm 1988.
Con Đường Như Thật
Hôm nay là ngày trăng tṛn tháng giêng mà cũng
có nghĩa là chúng ta đang bắt đầu bước vào thời gian cấm túc tu
tập mùa đông. Có cả một đêm dài để thiền định thế này quả là một
cơ hội tuyệt vời và càng may mắn hơn nữa là kể từ bây giờ chúng ta
c̣n có đến hai tháng trời để sống hết ḿnh theo Phật Pháp.
Giáo lư của Đức Phật dạy ta hăy biết nhắm tới
sự hiểu biết về tiến tŕnh sinh hóa của vạn pháp một cách như thật.
Nói cách khác, Đức Phật chỉ đề nghị chúng ta hai khả năng thôi:
Biết nh́n ngắm và tỉnh thức. Hai khả năng này thật ra chính là nội
dung của con đường Bát Chánh Đạo. Thực hiện đạo lộ này là một công
phu phát triển trí tuệ giải thoát. Tiếng Pàli gọi là Bhàvanà, ta
có thể tạm dịch là "Tu tiến".
Cũng là nh́n ngắm vạn vật nhưng nh́n chúng theo
đúng bản chất tự nhiên của chúng th́ ta sẽ có được cái Thấy tốt
hơn so với cái nh́n xuyên qua một lăng kính ngă chấp. Cái trợ lực
lớn nhất cho trí tuệ của tất cả chúng ta chính là niềm tin mù
quáng vào cái Tôi, từ niềm tin này ta bắt đầu nghĩ tới việc ôm ấp
nó. Cái Tôi đối với chúng ta lúc này đă trở nên hết sức cần thiết
chẳng khác ǵ nước đối với cá. Nước chiếm một vị trí quan trọng
trong đời sống của các loài cá trong khi chính chúng cũng không
nhận ra điều này. Chúng ta đâu có khác ǵ lũ cá đó. Chúng ta đă
nhắm mắt bơi lội trong cái thế giới cảm quan dưới sự chi phối của
Ngă chấp ngay từ những ngày đầu đời. Nếu không có một chút thời
gian nào để khám phá bản chất của sự hiện hữu th́ có lẽ măi cho
tới lúc qua đời, chúng ta cũng không biết được ǵ hơn, ngoài một
nếp sống bản năng!
Có điều là tất cả chúng ta ở đây đều không phải
là những con cá. Chúng ta là con người. Chúng ta có thể xem xét
lại vùng nước mà ḿnh vẫn bơi lội trong đó. Chúng ta có thể quan
sát thế giới cảm quan của ḿnh một cách như thật. Đừng cố gắng
chối bỏ hay củng cố nó, mà đổi lại, phải luôn tỉnh thức trước nó.
Nói vậy có nghĩa là chúng ta không tiếp tục tự mê hoặc chính ḿnh
bằng bất cứ sự cố nào, bất luận là những ǵ đáng sợ, đáng yêu, nói
chung là tất cả cái ǵ ta tự tạo ra trong tâm thức chính ḿnh.
Điều tôi muốn nói ở đây là chúng ta hăy cùng
tham khảo một định đề hay cũng có thể gọi là một Công Án: Nó là Nó.
Nếu các bạn đi hỏi một người đang bơi dưới nước rằng nước giống
cái ǵ, th́ tôi nghĩ rằng tốt nhất người đó chỉ nên đơn giản nh́n
xuống mặt nước rồi trả lời rằng Nó là như vậy đấy. Nếu được hỏi
thêm nữa về nhiệt độ của nước, cảm giác ngâm ḿnh trong nước ...
th́ ai cũng có thể trả lời nhưng để t́m một cái ǵ đó tương đương
để diễn tả th́ gay đấy. Bởi nước chỉ là nước, là như vậy thôi.
Thế giới của chúng ta cũng thế. Nó là Nó, và
chúng ta hăy nhận biết nó. Nó ra sao th́ ra, buồn hay vui cũng mặc,
kể cả trường hợp nó trở nên vô vị, tẻ nhạt. Nhưng trước sau ǵ Nó
vẫn là Nó. Mọi thứ luôn đến rồi đi vô chừng vô đổi, không hề có
một cái ǵ khả dĩ toàn bích và chắc chắn để ta có thể bám víu, lệ
thuộc cả. Toàn bộ đời sống cảm quan của chúng ta chỉ là những năng
lượng luôn chuyển đổi và xê dịch. Tất cả trôi chảy không ngừng, kể
cả tâm thức của chúng ta cũng thế.
Bây giờ th́ chúng ta đừng bận ḷng quá nhiều về
đời sống nữa. Chúng ta chẳng nên bàn chi tới cái Đẹp, Xấu, dễ yêu
hay đáng ghét của nó. Chỉ nên nh́n ngắm thôi. Đúng, chúng ta chỉ
việc chú ư quan sát đời sống, quan sát vùng nước mà ḿnh đang bơi
lội. Đời sống cảm quan của chúng ta thực ra chỉ là cái thế giới
của những cảm giác chúng ta sinh ra trong đó và cảm nhận. Ngay từ
lúc vừa lọt ḷng mẹ, chúng ta đă là một sinh thể độc lập để một
ḿnh cảm nhận trọn vẹn những nóng, lạnh, đói, khát, buồn, vui ...
Rồi khi lớn lên, thế giới cảm xúc của chúng ta càng rắc rối hơn
nữa. Ngũ quan chưa đủ, chúng ta c̣n sống bằng cả những ư thức để
suy nghĩ, ghi nhớ, quan niệm ... Tất cả đều là cảm giác. Chúng có
thể là những niềm vui, những kinh ngạc mà cũng có thể là những áp
lực, giằng xé. Tất cả những xúc tác đó của đời sống cảm quan chỉ
đơn giản là vậy. Chúng là chúng. Đau khổ là đau khổ và hạnh phúc
là hạnh phúc. Cả xả thọ cũng vậy.
Để có thể soi rọi đúng đắn những thứ này, ta
chỉ có mỗi con đường duy nhất là tỉnh thức để tập trung chú ư. Có
thể có ai đó trong pháp hội này muốn đề nghị tôi hăy chỉ rơ cho họ
cách thức cảm nhận đời sống. Tôi xin nhấn mạnh rằng điều cần thiết
không phải là chúng ta phải NÓI về đời sống, mà thay vào đó, chúng
ta chỉ nên SỐNG phơi mở và đón nhận nó đúng như nó mà thôi. Chúng
ta không cần thiết phải nói cho ai đó nghe về chân lư trong khi họ
có thể tự ḿnh khám phá ra nó. Hai tháng cấm túc này là một cơ hội
tốt để chúng ta tự thực hiện những cuộc khám phá và cho dầu không
thể thành tựu được trọn vẹn những ǵ tôi vừa nói, th́ đối với một
số người sau một thời gian công phu như vậy, tôi tin rằng việc
phát triển ít nhiều trí tuệ chắc chắn là điều có thể thực hiện.
Ở đây tôi lại muốn định nghĩa về tiếng Trí Tuệ
mà ḿnh vừa nhắc tới. Từ sanh đến tử là một hành tŕnh như thật.
Trên hành tŕnh đó, cái thường trực nhất vẫn là những đau đớn, bất
toại, phiền muộn, chán nản. Nếu chúng ta không nhận diện chính xác
Chúng là Chúng, là những pháp giới, pháp tánh th́ coi như chúng ta
đă tự đặt vấn đề với chúng, quan trọng hóa đối với chúng. Khoảng
cách giữa Sinh và Tử lúc này đă được thiết lập và thành ra cái ǵ
đó mang tính ngă thể chứa đầy những thành kiến như sợ hăi, ham
muốn.
Chúng ta thường đau khổ v́ mặc cảm cô đơn nên
dù sống giữa một cộng đồng tập thể cũng vậy. Và như thế th́ cuộc
sống của mỗi người là một cố gắng để ḿnh khỏi phải cô đơn nữa. Ta
muốn cùng người khác chuyện tṛ, sinh hoạt cho bớt đi cảm giác lẻ
loi. Nhưng phải nhận rằng mục đích đó của chúng ta xem ra không
thể nào đạt tới. Chúng ta măi cô đơn, thực sự cô đơn ngay trong
chính h́nh hài này của ḿnh. Chúng ta có thể lập nhóm hoặc cùng
tham dự sinh hoạt với người khác nhưng chỉ có chừng đó thôi, đến
mức độ đó thôi. Bước vào thế giới cảm nghiệm thực sự về đời sống,
ta sẽ thấy rằng ḿnh vẫn rất cô đơn, niềm cô đơn không cùng và
toàn diện. Việc t́m kiếm một người giúp ḿnh thoát khỏi niềm cô
đơn quả là một vọng tưởng.
Khi đứng cạnh một sinh thể vật lư nào đó, ta
hăy chú ư ghi nhận tại sao ḿnh vẫn măi là một cái ǵ cách biệt
với chung quanh. Có phải ta đă chưa có một cộng hưởng cụ thể nào
với nhau? Phải nói rằng càng nghĩ nhiều về tấm thân này, ta sẽ
càng cảm thấy cô đơn hơn, dễ bị xúc phạm hơn. Rồi từ đó ta lại cố
tách ḿnh để cô đơn hơn và tự tạo một thế giới riêng tư để sống.
Kết cuộc, chúng ta chỉ được toàn những thứ buồn cười và chua chát:
Đó là những t́nh bạn qua đường đầy h́nh thức, rồi là những kẻ thù
và tất cả những thứ đó sau một quá tŕnh đến, đi, bắt đầu, kết
thúc cũng chỉ c̣n lại một con số không. Mọi cái đều sinh ra và mất
đi ngay trong chính tâm hồn chúng ta. Trách nhiệm của chúng ta là
nhận ra tính kế thừa nhân quả của Sinh và Tử, bắt đầu và kết thúc
...
Trong mùa cấm túc này, chúng ta sẽ cùng giải
quyết một công án thôi, đó là những ǵ đang sinh ra, đang xuất
hiện. Và ngay bây giờ, chúng ta sẽ bắt đầu tham án với những ghi
nhận sau đây: Đây là bản thân của tự Sanh, đây là h́nh hài vật lư,
Nó chính là ư thức, là cảm giác, là tri thức, là hồi ức, là những
vận động ... Tất cả đều là những công án thiền định v́ chúng đều
là những đối tượng tri nhận của ư thức, là những pháp giới, pháp
tánh. Nếu chúng ta c̣n cố xem xác thân này là một đối tượng để
quan niệm về nó bằng những định kiến Ngă chấp "Tôi, của Tôi" th́
chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn và thất vọng, bởi cái ǵ
cũng đang trên đường đi đến chia cắt và phân hủy nên một sự bám
víu vào phù du nào cũng chỉ đem lại cho ta những sợ hăi và mù
quáng. Từ đó chúng ta luôn dễ dàng cảm thấy bất an kể cả những lúc
thật ra chẳng có ǵ đáng ngại. Như vậy, cho tới khi nào Vô Minh
c̣n che án bản chất các pháp th́ cho đến lúc ấy tâm hồn ta cũng sẽ
tiếp tục bị đè nặng bởi những âu lo.
Nhưng ở đây ta phải hiểu thêm rằng tất cả những
cực ḷng đó đều là những ảo tưởng do chính chúng ta tự tạo ra thôi.
Âu lo chỉ đơn giản là một tâm trạng bị chất nặng, thái quá. Tất cả
những thứ được gọi là t́nh yêu, hạnh phúc trên đời này luôn phản
bội lại chúng ta khi ta cố t́nh đầu tư chúng. T́m kiếm chúng chỉ
có nghĩa là đi t́m những thứ đổ nát hoang tàn thôi. Đó là lư do
tại sao Pháp môn Thiền Quán dạy ta phải biết chối từ tất cả cảm
giác hưởng thụ, thưởng thức. Khước từ v́ hiểu được chúng thật ra
là những ǵ, ta không tiếp tục t́m đến chúng nữa. Chúng chỉ là
Chúng. Chúng xuất hiện rồi tan biến đi và không hề là một bản ngă
nào hết. Đó là tinh thần của pháp môn Thiền Quán.
C̣n đứng trên lập trường văn hóa Tây phương của
chúng ta th́ vấn đề sẽ ra sao? Môi trường xă hội gần như đă buộc
ta phải luôn luôn quan niệm về cái Tôi, cái của Tôi trên mọi thứ,
từ tâm sinh lư bản thân đến quan hệ gia đ́nh và vị trí xă hội.
Chúng ta đừng quán tưởng về Vô Ngă bằng những câu nói công án hay
những lời kinh nghiệm về tánh Không mà thay vào đó, ta nên trung
thực khám phá xem tại ḿnh bị cuốn hút mănh liệt vào niềm hi vọng
về một cái Tôi đến thế. Và đời sống này lạ lắm, như tôi đă nói, ta
càng mơn trớn nó, nó sẽ càng có vẻ đối lập, ḱnh chống chúng ta.
Lúc này nó cứ giống một mảnh sứ vỡ hay một viên gạch cứng càng nắm
chặt nó, bàn tay ta chỉ đau đớn thêm thôi. Tất cả những phức loạn,
giằng xé đều đến với ta bằng con đường của quan niệm về cái Tôi.
Và cái Tôi hư tưởng đó gần như thường xuyên mang lại cho Ta những
thất vọng, sợ hăi. Và đời sống đối với chúng ta bây giờ c̣n tồi tệ
hơn cả chính bản chất thực sự của nó nữa!
Trong khi đó, chỉ bằng một công phu quan sát
khách quan về tất cả những ǵ Đang ... là, Đang có mặt, th́ mọi sự
sẽ ổn cả. Những cái thú vị, tươi đẹp, khoái cảm đều chỉ là cái ǵ
chúng Đang là. Những đau đớn, bất toại, bệnh hoạn cũng chỉ là
những thứ Đang xảy ra. Chúng ta có thể thường trực nh́n thẳng vào
hành tŕnh luôn được tiếp diễn và đổi thay của đời sống. Hăy nhớ
rằng tâm thức của một người liễu đạo luôn nhạy bén và chính xác,
c̣n đối với kẻ hăy c̣n quá nhiều vô minh th́ tâm hồn luôn bị động
và tù hăm.
Chúng ta luôn tự làm khổ ḿnh bằng những chấp
thủ. Thái độ quan trọng hóa bản thân, tức nghĩ về ḿnh nhiều quá
chỉ khiến đời sống mỗi người thêm khó khăn. Kể cả một ư thức về
dân tộc, tín ngưỡng cũng thế, cái ǵ ta ôm ấp cũng đều đem lại cho
ta những cực ḷng, thất vọng. Tất cả định kiến hay quan niệm, lập
trường dù có như thế nào cũng chỉ là những sản phẩm tật nguyền của
ư thức. Chúng ta có thể là nhân tố sinh tồn cho một tổ chức cộng
đồng nhưng chỉ có chừng ấy ư nghĩa thôi, ngoài ra chúng chẳng là
cái ǵ cả. Kinh điển gọi đó là cái Chế định, Tục đế, Giả lập (Sammuti
dhamma). Cái tên gọi là Sumedho chỉ là một sản phẩm, một sáng tác
có giá trị nhất thời trong một thời gian nhất định nào đó. Màu áo
tu sĩ hay h́nh dạng một con người, tất cả cũng đều là những thứ
giả lập. Chúng trước sau chỉ là Chúng. Chấp thủ những thứ đó, tâm
hồn chúng ta càng bị giới hạn và tù đày. Nó chỉ là một mảnh sứ vỡ,
trong khi chúng ta th́ cứ mù ḷa trong những ảo tưởng.
Muốn vượt thoát ảo tưởng, ta đâu cần vất bỏ
chúng một cách trẻ con, theo cách hiểu trẻ con. Để thực hiện công
phu đó, tôi không cần thiết phải tự sát hay hoàn tục bởi thật ra
tất cả ảo tưởng đều không có ǵ để nói cả. Chúng sẽ chẳng quấy rầy
ta nếu ta hiểu được chúng là ǵ. Ảo tưởng là ảo tưởng, thế thôi,
và chúng đi ra từ khái niệm không gian và thời gian, chỉ có vậy.
Cứu cánh Níp Bàn, tức cái tự do hay giải thoát
thật sự chỉ có thể đạt đến bằng một sự nhận thức toàn triệt về nội
dung rốt ráo của các pháp. Từ chuyên môn trong Phật học gọi là
Paramatthasacca tức bản chất rốt ráo của vạn sự, vạn vật (Chơn đế).
Giải thoát ở đây có nghĩa là chúng ta không c̣n ham muốn và sợ hăi
nữa, một sự giải thoát vượt ngoài mọi ảo tưởng, một sự giải thoát
mang ư nghĩa bất tử vĩnh viễn. Nhưng để có được sự giải thoát này,
trí tuệ này, ta phải thấy được bản chất như thật của ḷng ham muốn
để xem nó nhắm tới cái ǵ. Ta đồng thời phải hiểu ư nghĩa của sự
đau khổ, hiểu được hành tŕnh nào đă dẫn tới sự ngộ nhận về một
cái Tôi. Chúng ta phải tự giải đáp tất cả những vấn đề này, không
thông qua trung gian nào hết để không mắc phải ngộ nhận. Hăy nhớ,
ngay chính ư muốn đi t́m quan niệm Vô Ngă cũng có thể là một Ngă
chấp trá h́nh. Vấn đề ở đây không phải là xác định hay phủ nhận mà
là một sự nhận chân, một sự nh́n thấy đúng đắn. Ta phải thực hiện
công phu này bằng tất cả chánh niệm!
Với Chánh Niệm, chúng ta có thể mở ra toàn bộ
những khuất lấp của thực tại. Chúng ta sẽ dành trọn hai tháng cấm
túc này để phơi mở mọi thứ bằng tất cả khả năng chánh niệm: Khỏe,
mệt, toại nguyện, thất vọng, hạnh phúc và đau khổ, thậm chí giác
ngộ và thua cuộc. Chúng ta đừng mất thời giờ cho những suy nghĩ vớ
vẩn, chẳng hạn ao ước một điều ǵ đó sẽ xảy đến cho ḿnh, kể cả
một sự hy vọng nông nổi vào những thành quả tu tập mà ḿnh mong
mỏi đạt được trong mùa cấm túc này. Tự bản thân những tư tưởng đó
đă là một khổ lụy. Và thay vào đó, ta chỉ việc tập trung tất cả
khả năng dù có khó khăn đến mấy đi nữa. Hăy thực hiện điều này một
cách đầy ư thức và như vậy, bất cứ chuyện ǵ xảy ra trong hai
tháng sắp tới cũng sẽ là một phần thành quả cho công phu của chúng
ta. Hăy nhớ, ngay từ bây giờ, công án thiền định của chúng ta chỉ
là sự Hiện Hữu Như Thật của mọi thực tại, bất kể nó là cái ǵ. Nói
chung, công án của chúng ta là mọi sự, mọi vật.
Đi đúng con đường đó, đến cả những thất vọng và
đau khổ cũng có thể đem lại cho ta sự tĩnh lặng và an b́nh của
Thiền định. Hồi c̣n ở Thái Lan, tôi cũng đă có dịp đi qua bài học
này với một loạt những trở lực hoàn toàn bất lợi cho ḿnh lúc đó:
Những cảm giác cô đơn, lẻ loi, bồn chồn, nghi hoặc, âu lo, thất
vọng. Chạy trốn chúng, chúng càng theo đuổi. Đón nhận chúng, chúng
biến mất. Và điều dĩ nhiên là một khi ta đă dám chấp nhận tận cùng
mọi thứ th́ c̣n có ǵ để ta phải chối bỏ nữa!
Phải nói rằng con đường mà Pháp môn Thiền quán
đề nghị chúng ta dấn bước quả là hết sức tế nhị và sâu thẳm. Nó
không phải sâu thẳm và tế nhị ở h́nh ảnh cảm nghiệm bởi đề tài
nh́n ngắm của Thiền Quán luôn là ở Đây và Lúc Này. Nó b́nh thường
thôi, như nước đối với cá và chính v́ vậy ta không nhận ra nó. Như
đă nói, nước là môi trường sống của cá nhưng con cá đâu có hay
biết điều đó cho dù nó đang bơi trong nước. Thế giới hiện hữu của
chúng ta chỉ có ở Đây và Bây Giờ, không phải ở đâu xa xôi nhưng nó
chính là cái để ta phải chú ư nh́n ngắm, bằng một chánh niệm song
hành với trí tuệ.
Hăy tập trung chú ư vào con đường sinh hóa của
mọi sự. Chúng ra sao th́ thấy như vậy. Một cơn tức giận đang bừng
dậy à? Chẳng sao cả, chúng ta vẫn đang theo sát nó kia mà!
Hăy nhớ rằng không phải chúng ta đang cố gắng
Để Trở Thành một ông thánh hay một cao nhân nào cả. Chúng ta cũng
không nổ lực Để Tống Khứ một ác pháp nào hết. Hăy sống hồn nhiên
và thoải mái. Cảnh giới nội tâm của chúng ta Là Như Vậy. Nó có thể
là bất tịnh hay trong sáng và đó là một cặp hành trạng đối đăi
nhau của ư thức. Thấy rơ Chúng như là Chúng, thấy rơ Chúng luôn vô
thường, vô ngă th́ đó chính là trí tuệ vậy. Trong khi đó, bằng một
ư thức ngă chấp, chúng ta cố gắng mong mỏi "Tôi sẽ phát triển
những ǵ thanh tịnh, tống khứ những ǵ không thanh tịnh " th́ lập
tức cái không thanh tịnh sẽ xuất hiện và kềm hăm chúng ta. Chúng
ta lại vấp vào khối đá thất vọng trên đường đi của ḿnh, thế là
tiếp tục đau khổ. Hăy cẩn trọng với hai tháng cấm túc này. Vô minh
luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta tự chuốc lấy những khổ lụy.
Như vậy, trong một nội tâm đầy chánh niệm, tất
cả hạnh phúc và khổ đau đều đồng giá trị. Không có ǵ khác biệt
giữa hai thực tại này hết. Cái nào cũng là Đang Là, xuất hiện rồi
biến mất. Hạnh phúc vẫn là Hạnh phúc, Đau khổ cũng cứ là Đau khổ.
Chúng là cái Chúng Là. Chúng vô ngă và chỉ có vậy. Chúng ta đừng
để ḿnh phải đau khổ v́ chúng. Chỉ việc đón nhận, nh́n mặt và hiểu
biết chúng. Tất cả cái ǵ có mặt đều phải có lúc biến mất. Tất cả
đều vô ngă!
Tôi xin gởi đến pháp hội bài nói chuyện này như một công án để
các vị tham chiếu.
-ooOoo-
[03]
Đại đức Pabhakaro
Khiêm cung
Tiểu Sử Tác Giả:
Đại Đức Pabhakaro thế danh là Gordon Kappel
sinh năm 1948 tại Seattle, Washington. Nhập ngũ năm 1967, từng có
mặt tại chiến trường Việt Nam (1969) với cấp bậc đại úy không quân.
Trong một chuyến đi sang Thái Lan, đại đức đă đến viếng các chùa
và t́nh cờ gặp được chư tăng người Tây Phương đang tu học tại đây.
Năm 1970, về lại Alabama (Hoa Kỳ), đại đức dành
trọn thời giờ để nghiên cứu Phật Giáo một cách nghiêm túc, dần dần
phát nguyện bát quan trai giới và học Thiền. Sau đó trở qua Thái
Lan, đại đức tu sa-di ở chùa Wat Bovornives rồi năm 1972 chính
thức thọ giới tỳ kheo tại chùa Wat Pah Pong.
Năm 1977, khi đại đức Samedho rời Thái Lan để
sang hoằng pháp tại Anh Quốc, đại đức Pabhàkaro coi như trở thành
vị viện chủ của tu viện Nanajat. Năm 1979, sau khi tháp tùng Thiền
sư Ajahn Chah trong một chuyến đi ṿng quanh Châu Âu và Hoa Kỳ,
đại đức trở về Thái Lan bỏ ra 18 tháng sống hạnh Đầu Đà giữa rừng
sâu rồi sau đó quay về chăm sóc Thiền sư Ajahn Chah lúc này đang
trở bệnh nặng, đồng thời quán xuyến luôn cả các Phật sự tại chùa
Wat Pah Pong.
Năm 1984 đại đức đi Anh quốc để cùng các huynh
đệ thành lập trung tâm Phật Giáo Amaravat́. Đại đức hiện là trụ
tŕ chùa Harnham Vihara và đă từng xuất hiện trên đài truyền h́nh
trong một chương tŕnh có tên là "Cuộc hóa duyên về Newcastle".
Bài viết sau đây là nội dung được phỏng lại của
một thời giảng do đại đức Pabhàkaro thực hiện vào tháng tám, năm
1984 tại Scotland.
Khiêm Cung
Một lúc nào đó, biết ngồi lại để thấm thía tinh
thần uyên áo mà giản dị của Phật pháp, chúng ta có thể sẽ thấy
được ư nghĩa quan trọng tuyệt vời của cái gọi là cách đối nhân xử
thế hay nói gọn hơn, là phép sống ở đời. Ở đây chúng ta sẽ có được
những kinh nghiệm quư giá về quy luật đối xứng trong từng hành
động, ngôn ngữ và cả ư nghĩa của ḿnh nữa. Mọi sự luôn để lại một
hiệu quả thích đáng. Tôi đặc biệt nhấn mạnh và có hứng thú trong
đề tài này v́ qua chính nó, ta sẽ có rất nhiều vấn đề để nói. Cái
tuyệt vời của phép sống mà tôi sắp nói tới không phải chỉ được
quan tâm v́ nó đă được nói tới nhiều trên các trang sách mà hơn
thế nữa, nó là một thứ kinh nghiệm tâm linh tự chứng hết sức đặc
thù đ̣i hỏi một công phu trau luyện của bản thân.
Tôi đang đứng trên bục giảng nên cứ xem là tôi
đang có một cơ hội để san sẻ thứ kinh nghiệm đó của ḿnh. Tôi đă
từng được dạy cách phơi mở từng phút giây thực tại để tận dụng khả
năng cao nhất của ḿnh nhằm có thể học được cách nói chuyện bằng
chính ngôn ngữ của trái tim, thứ tiếng nói được phát biểu bằng
chính kinh nghiệm nội tại. Từ lâu, tôi vẫn hướng tâm về một bài
học duy nhất là làm sao có thể sống ban phát một cách đúng mức. Tư
tưởng đó dĩ nhiên đă đem lại cho tôi rất nhiều đạo lực giá trị
nhưng rồi đôi lúc, trong đầu tôi lại chập chờn những câu hỏi: "Liệu
người ta có cần đến thái độ đó của ḿnh hay không? Thật ra thiên
hạ cần đến một sự tương giao như thế nào?".
Trong những lúc nhức đầu với mấy tự vấn đó, tôi
lập tức cố gắng quay lại với chính ḿnh bằng một thái độ buông xả
rồi lại tự hỏi: "Cái Tôi từ đâu đến mới được chứ? Ḿnh từ đâu đến
đây nhỉ?"
Theo tôi, tính trung thực là một trong những
giá trị tinh thần thù diệu nhất mà con người cần thiết phải phát
huy, trưởng dưỡng. Đức tính này cũng là một trong mười hạnh Ba La
Mật của Phật Giáo. Cho dẫu có tự xét ḿnh theo quan điểm đạo đức
hay tôn giáo, chúng ta cũng sẽ thấy rằng một khi ngay trong chính
thâm tâm ḿnh đă thiếu tính trung thực, chân thực th́ bước đi tiếp
theo sẽ là việc dối người dối đời. Sự dối ḷng th́ tinh vi lắm,
rất khó phát hiện, nên ta c̣n có thể tự dung túng nó. Nhưng để dối
người th́ vấn đề hơi gay go.
Hiệu quả của ḷng trung thực kỳ lạ lắm. Những
khi sống với nó, tôi tự nhiên thấy ḿnh trở nên khiêm tốn hơn để
có thể chịu thua thiệt với bất cứ ai một cách dễ dàng. Nhờ nó, tôi
đủ can đảm chấp nhận đời sống dù có phải ra sao. Quư vị hăy nhớ
lại đi, nền văn hóa hiện đại thật ra vẫn chưa hề dạy ta cái tinh
thần khiêm tốn ngay cả những khi danh từ này được nhắc tới một
cách trịnh trọng nhất. Nào có ǵ đâu, trong một định nghĩa bội bạc
nào đó, người ta c̣n bảo khiêm tốn hay khiêm cung chỉ là cái cử
chỉ khom ḿnh thật thấp về cả ư nghĩa sinh lư lẫn từ ngữ. Thậm chí
có người c̣n nói thái độ khiêm tốn, về mặt ngữ nghĩa, chỉ là động
tác tự gây cho ḿnh cái cảm giác thấp kém và bé mọn hơn. Từ đó,
người ta thường cứ thấy ấm ức khi phải tỏ dấu thi lễ, nhún nhường
với ai đấy.
Kỳ thật, trong từng cái cúi đầu như vậy, cái
Tôi trong chúng ta coi như đă ít nhiều được đè nén nhưng hăy nhớ
đấy, hăy luôn cảnh giác với chính ḿnh khi cử chỉ khiêm cung đó
chỉ c̣n là một động tác máy móc.
Trong đời sống tu tập của một Phật tử, đức tính
khiêm tốn không chỉ là một dấu hiệu văn hóa mà c̣n là một pháp tu
nữa. bởi cũng chính từ đây, sự tiến bộ của chúng ta được thực hiện
và thể hiện. Tôi biết có người sẽ cho thái độ khiêm tốn là phương
hại cho dũng khí nhưng rơ ràng những ǵ tôi vừa nói trên đâu có
nghĩa là chúng ta phải nhắm mắt để mặc cho người khác chà đạp. Tôi
không hề kêu gọi các vị hăy nằm dài xuống mặt đường cho mọi người
dẫm lên để trau dồi được tính khiêm tốn. Điều chúng tôi đề nghị ở
đây chính là thái độ tâm lư của mỗi người trong từng cuộc đối diện
và phản ứng với đời sống chung quanh. Tấm thân sinh lư này thật ra
chẳng nghĩa lư ǵ đâu, chúng ta nên học cách cúi thấp ngay từ
trong tư tưởng, trong từng quan điểm của ḿnh ḱa!
Hăy thử quan sát điều ǵ sẽ xảy ra khi ta không
có phản ứng đối kháng trước lời công kích của ai đó. Phải nói rằng
khi xúc phạm chúng ta, thiên hạ luôn chờ xem một sự trả đũa nào
đấy để họ có thể phỉ dạ, hả hê. Nhưng nếu về phía ḿnh, chúng ta
không có một đối kháng nào để áp dụng thù tạc lại th́ những thị
phi kia lúc này coi như bị tung trợt ra ngoài như một quả banh bị
đánh vào khoảng không. Tôi nhắc lại, chúng ta không có đối kháng
mà chỉ nên bao dung thôi. Và vấn đề không chỉ dừng lại ở tinh thần
bao dung, chúng ta c̣n phải hiểu rơ bằng cách nào ḿnh đă thực
hiện được điều đó.
Tôi đă thực tập được điều này trong thời gian
c̣n sống ta bà. Ngoài những lời mỉa mai, phỉ báng c̣n biết bao thứ
phũ phàng khác nữa mà thiên hạ đă trút lên tôi. Chẳng hạn, ngoài
cảm giác tâm lư khó chịu dĩ nhiên phải có khi biết người chung
quanh chẳng ưa mến ǵ ḿnh, tôi c̣n phải chấp nhận cái đinh tai
nhức óc khi có người muốn đuổi theo sau hoặc muốn sánh bước với
ḿnh. Những khi đó, tự trong người tôi quả là đang trào dâng một
nguồn sinh lực bản năng nào đấy để sẵn sàng bật tung ra cho một
đối kháng nhưng cũng may, bao giờ tôi cũng kịp thời giữ ḿnh và
tiếp quản lập tức nguồn sinh lực đối kháng ấy. Đúng là chuyện khó
tin khi trong ḷng cùng lúc tất cả phức loạn tâm sinh lư lại tương
quan với nhau một cách nhịp nhàng đến thế. Lúc đó tôi có cảm giác
như sức phản ứng của ḿnh được di chuyển khắp vùng lục phủ, bàn
tay nắm chặt lại để sẵn sàng hành động nhưng rồi khi nội tâm được
dàn xếp, sức mạnh sinh lư kia trở nên nhẹ nhàng, ngoan ngoăn cho
một sự khuất phục. Như vậy có thể nói đây là con đường để tận dụng
một cách hữu ích và nhuần nhuyễn mọi t́nh huống trong đời sống,
biến trở lực thành ra pháp tu mà ư nghĩa căn bản của nó nằm trong
hai tiếng: "khiêm cung".
Có thể nói hầu như cuộc đời của tôi đă đi qua
những chỉ số tiêu chuẩn nhất, trong một h́nh hài cao trên một mét
tám và hạng nặng những một trăm kư. Nhưng đối với tôi, mấy con số
đó không hề là cái ǵ cả như bọn thiếu niên dậy th́ vẫn mong mỏi
có được để tự khẳng định sức vóc và tuổi trẻ của ḿnh. Nhờ biết
quên đi, biết coi nhẹ cái ḿnh đang có, nên tôi xem như có thể
dửng dưng tẩy xóa được cái ám thị "Cơ bắp, phái mạnh, anh hùng"
trong chính bản thân. Ngày nào chúng ta c̣n bị vướng vít với những
"tầm vóc, kích thước" th́ công phu thiền quán phải nói là cả một
vấn đề và cũng có thể nói rằng chính nhờ biết quên đi những ám thị
không cần thiết nên tôi đă t́m thấy cái đẹp thật sự trong đời sống
phạm hạnh của ḿnh. Khái niệm thẩm mỹ cao khiết này đă vạch ra cho
tôi một hướng sống hết sức tuyệt vời, ngay từ những sinh hoạt b́nh
thường nhất. Chẳng hạn ở đây mỗi ngày chúng ta có những nghi thức
tôn giáo thoạt xem qua th́ rất giản dị như động tác chắp tay và
tụng kinh. Cái khó nhất vẫn là động tác chấp tay cúi đầu. Chỉ
riêng động tác đó thôi, trên h́nh thức, th́ có ǵ đâu. Chỉ có điều
là chúng ta thực khó mà "biết chấp tay ngay tự đáy ḷng ḿnh". Để
thực hiện được điều này ta phải tự đối diện với sự tự kháng quyết
liệt của nội tâm. Chúng ta thực ra đâu có muốn chấp tay, bởi có
biết bao là những quan niệm đối lập lại với động tác khiêm cung
xem ra có vẻ quá đáng ấy. Nhưng nói cho cùng th́ chúng ta làm
những cái ǵ?
Ngay chính bản thân tôi trong cuộc đời tu học
của ḿnh cũng đă nhận ra những rắc rối này từ rất sớm. Nhưng tôi
đă may mắn gặp được thiền sư Ajahn Chah, người mà theo tôi là một
bậc chân sư khả kính nhất. Tôi đă sụp ḿnh đảnh lễ dưới chân Ngài
một cách dễ dàng. Ngài không hề bảo tôi làm thế, dĩ nhiên, nhưng
tôi đă đảnh lễ Ngài v́ tự nhiên muốn làm như vậy. Tôi đă bất chợt
nhận ra là tư thế phủ phục đó đẹp quá, thay v́ đứng thẳng người
lên, nói một câu nào đó thật sáo rỗng mà trong đầu vẫn tồn đọng
một cái Tôi to tướng. Tư thế sụp ḿnh đưới đất như vậy đă đem lại
cho tôi một cảm giác làm sao ấy, nó như tưới mát cả tim mạch...
Để mọi người có thể cùng chia xẻ với chúng tôi
cái cảm nghiệm đó quả là khó khăn. Lớn lên trong nền văn hóa Tây
phương, chúng ta thường có khuynh hướng chú trọng đến cái ǵ thực
tế. Khách viếng chùa nh́n thấy những ǵ h́nh thức lễ bái, rất có
thể sẽ cho là chúng tôi đă nhồi sọ tín đồ hoặc những nghi thức hạ
ḿnh đó c̣n là một cách lập dị để nuôi lớn một cái Tôi.
Người Tây Phương chỉ có thể xem nghi thức chắp
tay gần như là biểu cử của cấp dưới cho nên khó mà thực hiện và
càng không thể hiểu được ư nghĩa tuyệt vời của nó. Trong khi đó,
đứng trước một cái cúi đầu của mọi người - Theo tập tục Thái Lan
chẳng hạn - th́ tự nhiên tôi thấy ḿnh phải tự biết khiêm tốn bằng
cái gật đầu đáp lại với một sự trân trọng thiệt ḷng. Cách cúi đầu
của người Thái xem ra cũng có ư nghĩa tương đương với cái chấp hai
bàn tay (ànjali) của cổ tục Ấn Độ mà người xứ này vẫn gọi là phép
chào hỏi cung kính nhất (Namaste). Họ chỉ chắp tay lại thôi nhưng
trong động tác ấy ngầm chứa một lời chào "Tôi xin cung đón, cung
tiễn hay phủ phục trước bạn". Ở phương Tây, đặc biệt tại Mỹ, bạn
chỉ cần đưa tay ra nắm lấy bàn tay người đối diện rồi nói một câu
khuôn sáo cho xong "rất hân hạnh" chỉ vậy thôi. Tôi là một người
Mỹ nhưng cho tới bây giờ vẫn cứ thấy cách chấp tay chào nhau là
một biểu lộ t́nh cảm đẹp nhất.
Mấy năm trước, lúc c̣n ở Thái Lan, tôi đă từng
sống gần một nữ tu người Tây Tạng, cô biết nói tiếng Anh và cũng
là học tṛ của Ngài Ajahn Chah. Có một buổi chiều phải sang thăm
dăy thiền pḥng dành cho các nữ thiền sinh, Ngài Ajahn Chah bảo
tôi đi theo để thông dịch. Sau thời giảng về thiền như một bài học
thêm cho các cô, Ngài thiền sư dành đôi ba phút c̣n lại để trả lời
các câu hỏi. Một ngày trước đó, Ngài Ajahn Chah đă nh́n thấy cô
thiền sinh Tây Tạng đi nhiễu quanh ngôi chánh điện của chùa rồi
chốc chốc lại buông ḿnh trải người xuống đất để đảnh lễ theo nghi
thức Tây Tạng. Chiều nay, trước đám đông các thiền sinh, Ngài đề
nghị cô hăy làm lại động tác lễ bái đó cho mọi người cùng được xem.
Cô thiền sinh đă vâng lời và lập lại trọn vẹn nghi thức lễ bái đó.
Cô đă giải thích rằng đôi tay trong lúc này
mang ư nghĩa như một lễ phẩm của toàn bộ thân khẩu ư chính ḿnh.
Động tác duỗi tay và xoay vần quanh người rồi cuối cùng đặt lên
đầu là để tượng trưng cho tất cả tấm ḷng ḿnh đă trao gởi vào
động tác đảnh lễ. Sau đó, cô thả ḿnh nằm dài trên nền nhà với hai
bàn tay chấp lại để sau đầu, rồi lập lại mọi động tác ban đầu, cô
trải ḿnh xuống đất lần thứ nh́ và đôi bàn tay đặt trên đỉnh đầu
để kết thúc nghi thức. Chăm chú theo dơi từ đầu đến cuối, Ngài
Ajahn Chah đă buông một câu nhận xét: "Đây cũng là một phép tu về
hạnh khiêm cung và xả thân!".
Tôi không bao giờ quên được buổi chiều hôm đó
với câu nói của Ngài Ajahn Chah. Ngài đă kín đáo nhấn mạnh cái đẹp
của một h́nh thức sinh hoạt tuy có vẻ vật chất nhưng lại chứa đựng
trọn vẹn tinh thần xả kỷ vong thân. Bởi nếu có được một cái nh́n
chuyên biệt, ta sẽ thấy rằng chỉ cần một vài động tác khiêm hạ
cũng đă quá đủ để nói lên tấm ḷng chân thành nhất. Tôi nghĩ rằng
đến cả những người ích kỷ và tự đại nhất có lẽ cũng không thể phủ
nhận điều tôi vừa nói trên đây.
Ngay trong đời sống tu viện, chúng tôi gần như
luôn có nhiều cơ hội để tự t́m lấy những bài thực tập về hạnh
khiêm cung thông qua từng cái cúi đầu của người khác đối với ḿnh
cũng như của ḿnh đối với người khác. Đối với chúng tôi, chỉ riêng
có chừng đó cũng gần như một pháp môn để tu học rồi. V́ ít ra đây
cũng là biện pháp để chấm dứt rất nhiều thứ cần được chấm dứt và
đây cũng là một hạnh tu khá đơn giản bởi ngay cả lúc rảnh rỗi nhất
cũng phải nhớ tới. Có khó ǵ đâu, chỉ bỏ ra tí thời gian để tự
nh́n lại ḿnh và nuôi dưỡng tâm hồn chỉ bằng từng cái chấp tay hay
cúi đầu thôi. Và đối tượng cho thái độ tôn kính đó nào có phải đ̣i
hỏi một thần tượng vĩ đại nào đâu. Chúng tôi chấp tay, cúi đầu và
thật đơn sơ, hướng về một nhân cách, đức tính, phẩm hạnh nào đó
như nhân ái, từ bi và hiểu biết...
Mỗi đêm, trước khi vào giường ngủ, tôi đều cúi
đầu trong tinh thần đó đúng sáu lần và trước khi rời giường vào
buổi sáng hôm sau tôi cũng lập lại sáu lần động tác đó như một
công việc đầu tiên trong ngày. Không chỉ riêng ở đâu hết, kể cả
những lần qua đêm ở nhà cư sĩ, tôi vẫn luôn giữ đúng thói quen đó,
và sẽ thú vị hơn nữa nếu trên tường của căn pḥng có được đôi ba
câu cách ngôn nào đó. Trong trường hợp không có một đối tượng nào
cả, ảnh Phật hay cách ngôn, lúc đó tôi có thể sẽ tự ḿnh làm một
buổi kinh cầu ngay trong nội tâm ḿnh bằng những suy tưởng về các
phẩm chất tinh thần nào mà ḿnh có thể vận dụng. Tôi nghĩ rằng
điều này, ai trong số chúng ta ở đây cũng có thể thực hiện được cả.
Việc thực hiện được hay không, những điều tôi
vừa nói, dĩ nhiên vẫn là sự lựa chọn của mỗi người. Điều đó chúng
ta nếu muốn th́ cũng có thể thực hiện bất cứ lúc nào mà, chẳng hạn
ngay từ bây giờ. Và bài học coi như bắt đầu từ đây thưa quư vị:
khi thấy không ai chào ḿnh th́ dù không có phản ứng ǵ rơ ràng,
tôi vẫn cảm thấy một chút buồn đi qua ḷng ḿnh và khi bắt gặp
được một cái cúi đầu, tôi dĩ nhiên nghe ḿnh dễ chịu hơn. Tôi hiểu
được cái khó khăn trong bài học này, nhưng bởi v́ quí vị đă thật
ḷng muốn học hỏi nó th́ đây sẽ là một bài học tuyệt vời. Đại khái,
bài học về đức tánh khiêm cung đ̣i hỏi ở chúng ta một sự cố gắng
tương xứng như thể một cuộc chiến không hơn không kém
-ooOoo-
[04]
Đại đức Khemadhammo
Đối diện thương đau
Tiểu sử Tác Giả:
Đại đức Khemadhammo (Alan Adams) sinh năm 1944
tại Portsmouth, Anh Quốc. Ngài từng là một nghệ sĩ trong đoàn kịch
quốc gia và đă đi lưu diễn khắp thế giới. Do một nhân duyên hạnh
ngộ, đại đức đă cảm mộ Phật Giáo rồi bỏ hết sự nghiệp, sang tận
Thái lan tu sa-di tại chùa Mahathat với Ḥa thượng Tan Chao Khun
Demp Siddhumani. Một năm sau đó lại thọ giới tỳ kheo ở chùa Pah
Pong của thiền sư Ajahn Chah. Lúc đó là năm 1972.
Năm 1977, đại đức đă tháp tùng với Ngài Ajahn
Chah cùng đại đức Sumedho sang thăm Anh Quốc rồi ở luôn tại chùa
Hampstead Vihara. Theo lời khuyên của thiền sư Ajahn Chah, đại đức
Khemadhammo đă dành trọn thời gian này để tiếp cận với các tù nhân
bị giam giữ tại địa phương để an ủi và cải hóa họ. Đại đức tỏ ra
rất hứng thú với Phật sự này và vào năm 1984, đại đức đă chính
thức thành lập Hội Tương trợ Tù nhân Phật tử lấy tên là Hội
Angulimàla. Thành phần chỉ đạo của hội này gồm các vị đại đức lỗi
lạc như đại đức tiến sĩ Saddhatissa, đại đức Sangharakkhita, đại
dức Sumedho và Lord Avebury.
Đại đức Khemadhammo đă xây dựng thêm một ngôi
chùa ở Isle of Wight và sống tại đây suốt năm năm liền. Trong thời
gian này, đại đức đă từng xuất hiện trên đài truyền h́nh của hảng
BBC trong chương tŕnh "Vẫn C̣n Đấy Lắm Nẻo Đường ".
Năm 1985 đại đức lại dời chỗ về Forest
Hermitage (Warwick). Tại đây, vào năm 1988 đă khánh thành một ngôi
đại tháp vẫn được gọi là tháp Shwedagon của Anh Quốc (gọi theo tên
một đại tháp tại Miến Điện, nơi thờ tám sợi tóc của Đức Phật).
Hiện nay, đại đức Khemadhammo đang sống tại Warwick cùng một số
huynh đệ, vẫn tiếp tục tới lui giúp đỡ các tù nhân rồi mở các khóa
thiền đồng thời cũng là giáo sư thỉnh giảng tại đại học Warwick về
ngành Phật học.
Bài viết sau đây của đại đức Khammadhammo đă
được viết theo yêu cầu của tờ báo định kỳ Caduceus và xuất hiện
trên trang báo vào tháng 12 năm 1987. Nội dung của bài viết đă
được thu gọn trong hai ḍng tít: Thiền Quán có thể tận dụng mọi
thứ trên đời để làm đề tài tham chiếu, pháp môn này có thể biến
mọi sự thành từng bước thăng hoa tâm linh.
Đối Diện Thương Đau
Sự đau đớn, dù về sinh lư hay tâm lư, quả là
một đề tài hết sức quan trọng của con người. Ta có thể nói rằng
mọi khổ tâm đều là thứ kinh nghiệm nội tại về những mức độ và h́nh
thức sai biệt nhau của tất cả điều bất toại; c̣n nỗi đau sinh lư
th́ lại là những từng tiếng chuông cảnh báo để con người chúng ta
huy động các sức mạnh sinh lư nhằm đối phó, đề kháng những bất
toại đó. Cả hai nỗi đau khổ này dĩ nhiên chẳng dễ chịu tí nào và
dĩ nhiên là chúng ta ai cũng nghĩ tới một cảnh giới, cụ thể hay
trừu tượng, không có sự hiện diện của chúng. Việc đi t́m một khả
năng ổn định tâm sinh lư từ đó coi như đă trở thành một phản ứng
tất yếu của con người trong suốt chiều dài đời sống vốn vô ngă này.
Chúng ta hăy tưởng tượng ra một ngôi nhà tồn
trữ nhiều đồ vật quí giá và được lắp đặt những trang thiết bị báo
động tối tân nhất. Nếu không có một nhiễu động bất thường nào xảy
ra th́ mọi thiết bị đó dĩ nhiên tiếp tục im lặng. Theo thời gian,
các thiết bị báo động có thể phải được kiểm tra và cũng có trường
hợp chúng có những lần báo động không chính xác. Nhưng tất cả điều
đó, về cơ bản, có thể không gây phiền phức cho chủ nhân của chúng
bao nhiêu. Tuy thế, sau nhiều tháng hay nhiều năm không hoạt động,
chẳng may, các thiết bị báo động kia th́nh ĺnh bị hỏng đi để
tiếng c̣i ré và đèn hiệu của chúng làm mất giấc ngủ người nhà hoặc
chúng im ĺm cho người đạo tặc mặc t́nh cướp trộm tài sản, chúng
ta sẽ làm ǵ trước t́nh huống đó? Tiếp tục ngủ trở lại, hay tháo
bỏ chúng vào một xó hoặc ngồi lại nghĩ cách đối phó những bất trắc
tiếp theo... Suy cho cùng, chúng ta thật ra vẫn đang đối diện với
một nỗi đau, cái duy nhất mà ḿnh vẫn c̣n giữ lại được trọn vẹn!
Chúng ta lúc này chỉ c̣n có hai thái độ chọn
lựa: Truy bắt kẻ trộm để thu hồi tài sản đă bị lấy mất rồi lắp đặt
trở lại các thiết bị báo động hoặc lặng lẽ chấp nhận mọi sự và
nh́n thẳng vào những ǵ vừa xảy ra. Thái độ thứ nhất có tốt lắm
th́ cũng chỉ đưa tay quay trở lại t́nh cảnh ban đầu. Nắm giữ trong
tay mọi thứ bằng một sự bất an. Mọi cố gắng lúc này lại chỉ tái
lập những điều kiện cho các bất trắc sắp xảy đến. Các bạn chẳng
những không có thêm được cái ǵ mà lại c̣n bị tổn thất bản thân
nữa là khác. Ngược lại, nếu chọn cách ứng xử thứ hai, bạn dù sao
cũng có thể coi như ḿnh đă có được cái ǵ đó. Tuy không tiếp tục
t́m lại những ǵ ḿnh đă một thời sở hữu nhưng xem ra bạn lại có
được một thứ tài sản mới quí giá hơn mà không cần phải nhọc ḷng
lắp đặt một thiết bị báo động phiền phức nào để có thể ǵn giữ nó,
đó chính là đời sống sung măn và yên thân. Kẻ trộm nào có thể đánh
cắp được nó! - Có đúng như vậy không nhỉ?
Đời sống tu tập của một tu sĩ Phật Giáo như tôi
phải luôn bao gồm một pháp môn tham chiếu về tấm thân sinh lư và
điều đó đă cho phép tôi có đôi chút kinh nghiệm nội chứng về t́nh
trạng sức khỏe sinh lư của ḿnh cùng sự hiểu biết về lợi ích của
kiêng khem trong vấn đề ăn uống. Đă có thời gian tôi chỉ ăn một số
loại rau đậu mà vẫn cảm thấy thoải mái. Đức Phật đă từng dạy rằng
quả thật là sai lầm khi ai đó nhắc tới hai tiếng "Khỏe Mạnh" để
nói tới tấm h́nh hài này dù chỉ trong khoảnh khắc. Nó là một hiện
tượng luôn biến đổi không ngừng và hoàn toàn không hề có tí ǵ
trong xác thân này là hoàn hảo cả. Từ đó, ta có thể thấy rằng Đức
Phật đúng là một y sĩ kỳ tài nếu xét về lănh vực y học, mặc dù có
thể nói toàn bộ sự nghiệp trí tuệ của Ngài chỉ nhắm vào con đường
đoạn trừ tất cả phiền năo để chấm dứt toàn triệt mọi khổ đau thật
sự của cuộc hiện hữu, kể cả những cái đau không mấy người nhận ra.
Đường lối "Phật Pháp trị liệu" này đă được
chúng tôi vận dụng và truyền bá ngày càng rộng răi hơn. Ngay hôm
khánh thành trung tâm Forest Hermitage, các vị sư huynh tôi đă
nhắc tới vấn đề này và đem so sánh trung tâm này với một bệnh viện
nhỏ. Riêng tôi, tôi cứ xem Forest Hermitage chẳng khác nào một
pḥng mạch, hơn thế nữa, là một pḥng phẫu thuật. Đề tài mà tôi
muốn nói tới trong bài viết này chỉ có một danh từ thôi, đó là Sức
Khỏe. Tiếng Sức Khỏe ở đây được dùng trong ư nghĩa rộng nhất của
nó.
Một sức khỏe sinh lư thông thường được nuôi
dưỡng bằng những chăm sóc vật chất và chúng sẽ suy sụp rồi trở nên
vô nghĩa đi theo tuổi đời của mỗi chúng ta. Riêng cái sức khỏe thứ
hai mà tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh th́ lại là một nguồn sinh lực
nội tại được h́nh thành sự vùng dậy tích cực của đời sống tâm linh
và nếu đă vậy, nó mới chính là cái Sức Khỏe thật sự cần thiết cho
đời sống mỗi người.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể bỏ mặc tấm thân
sinh lư của ḿnh cho nó ra sao th́ ra, nhưng khi chăm sóc nó ta
đừng quên tư niệm rằng ḿnh đang đầu tư cho một xác chết tương lai.
Chỉ có sức khỏe của tâm hồn mới chính là người bạn đường thủy
chung của chúng ta thôi, mức quan trọng của nó so ra đáng kể hơn
một sinh lực thể xác nhiều lắm. Bởi cho dù có sở hữu được một thể
h́nh sinh lư tuyệt vời đến mấy nhưng với một nội tâm bất ổn th́
chúng ta coi như vẫn là một con bệnh. Trong khi đó, nếu chẳng may
tạng phủ và kinh mạch cũng như ngoại h́nh của chúng ta có vấn đề,
mà đời sống tâm linh vẫn chói ngời, sung măn th́ ta lại trở thành
một gương sống cho mọi người nữa là khác!
Chúng ta hăy tự phát họa ra hai nếp sống cho
ḿnh thử xem: Hoặc là ngồi đó khư khư những ham muốn ích kỷ và
hưởng thụ, xây dựng quanh ḿnh những phương tiện vật chất an toàn
nhất rồi ngày đêm cực ḷng đối đầu với t́nh trạng sức khỏe bằng đủ
thứ liệu pháp và các cách ăn uống kiêng khem rắc rối góp nhặt được
từ những lời khuyên nhắc của y bác sĩ và thân nhân. Hoặc sống lặng
lẽ trong sự hiểu biết về những ǵ cần biết với một tâm thái lành
mạnh, mănh liệt. Có vạch ra rơ ràng như thế, ta mới thấy được rằng
nếp sống nào là cần có và khả dĩ mang lại một sức sống lư tưởng...
Cái chúng ta tuyệt đối cần đến chính là thứ Sức
Khỏe đó. Nó đến được với chúng ta qua tất cả hoàn cảnh và điều
kiện sống mà ḿnh đă can đảm đi qua. ở đó có thể là những đau đớn,
giằng xé hay ngọt ngào êm ái. Nhưng trong chính sự đối diện, chấp
nhận để rồi phân tích và thấu đáo đó, chúng ta mới hy vọng có được
một nguồn sức mạnh tâm linh mà năy giờ tôi vẫn gọi là Sức Khỏe
thật sự. Theo như những ǵ vừa nói, th́ rơ ràng là sự trở lực càng
lớn th́ càng là một bài học tốt để người ta lớn mạnh. Chính tôi có
lúc cũng đă nghĩ vậy. Nhưng quí vị cẩn thận đấy, có những đau đớn
không thật sự cần thiết phải có như chúng ta vẫn nghĩ đâu. Hăy nhớ
rằng, bản thân sự đau đớn (bất luận về tâm hồn hay thể xác) không
hề mang lại cho ta một giá trị nào cả. Vấn đề chỉ nằm ở chỗ chúng
ta đă nh́n ngắm và cảm nghiệm nó ra sao. Chúng ta phải học cách
đối diện với mọi đau đớn một cách sáng suốt đúng mức để từ bất cứ
nỗi đau nào, trí tuệ cũng đều có thể được khai sinh.
Tôi nhớ có lần được nghe một tay trộm nhà nghề
kể lại rằng anh rất có hứng thú với những tư gia hay cơ sở có lắp
thiết bị báo động trộm bởi những nơi đó thường có đồ vật đáng giá.
Thậm chí có thể nói là cứ dựa vào mức độ tối tân, tinh xảo của các
hệ thống cảnh báo th́ coi như đă đánh giá được phần nào giá trị
vật chất của các thứ được cất giữ bên trong. Ta cứ nghĩ xem, nếu
ta chẳng có ǵ để phải nhọc sức trông chừng hoặc không có một sự
ham thích ích kỷ trong bất cứ ngoại vật nào th́ ta có lẽ đâu cần
tới những biện pháp canh pḥng rắc rối đó. Chúng có th́ tốt, không
có cũng tốt. Đừng để ḿnh bị chúng quấy rầy, cứ điềm tĩnh và b́nh
thản xem chúng là chúng, chẳng liên quan ǵ tới ḿnh. Đó là một
sức mạnh tâm linh, một sinh lực thật sự được trưởng dưỡng từ thái
độ vô tham, vô chấp. Tư tưởng chúng ta lúc này coi như đă hóa băng
và chẳng cần tới một hệ thống báo động buồn cười nào nữa. Nói một
cách khác, chúng ta đă đứng ngoài mọi đau đớn, cực ḷng!
Đức Phật đă đề cập tới sự đau khổ của tất cả
chúng sinh một cách toàn diện: Vừa sâu sắc chi li mà cũng vừa phổ
quát bao hàm. Ngài dạy rằng khổ đau trên đời có thể kể thành mười
hai hoặc ba hoặc thậm chí nói có một cũng được. Nói có mười hai là
kể theo giáo lư Tứ Đế hoặc Duyên Khởi: Sanh, Già, Đau, Chết, Sầu,
Bi, Khổ, Ưu, Năo, thương phải xa, ghét lại gần, muốn chẳng được.
Kể thành ba là Khổ khổ (tất cả đau khổ tâm sinh lư theo khái niệm
đời thường), Hoại khổ (sự mong manh của tất cả những ǵ gọi là
hạnh phúc), Hành khổ (bản chất bất toàn, giả lập của vạn hữu).
Tính gọn c̣n lại một là Đức Phật nói tới thuộc tính căn bản của
các hiện tượng pháp giới luôn phải y cứ nhân duyên mà có mặt.
Tất cả những phân tích đó của Đức Phật về sự
đau khổ phải nói là quá rơ ràng nhưng tôi nghĩ ở đây ta cần phải
bàn rộng hơn nữa về giáo lư Ngũ Uẩn, năm thành tố cơ sở mà Phật
Giáo vẫn nhắc tới để phân tích cái gọi là Con Người.
Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Chúng
là từng đơn vị pháp giới phù du, vô chủ. Chúng tôi đôi lúc vẫn gọi
chúng là một hệ thống tồn tại của tâm sinh lư. Sắc Uẩn là tất cả
những ǵ thuộc về vật chất, bao gồm nhiều đơn tử tương thuộc lẫn
nhau để tồn tại và hoàn toàn vô tri giác. Tấm thân sinh lư của
chúng ta chỉ là chỗ gặp nhau của các đơn tử Sắc Uẩn. Bốn uẩn c̣n
lại, có chỗ gọi là Tứ Danh Uẩn, hoàn toàn tương ứng với cái mà ta
vẫn gọi là Ư thức, tư tưởng, tinh thần hay tâm linh. Bốn danh uẩn
này tương quan mật thiết với nhau để tồn tại, h́nh thành nên khối
tâm linh với những khía cạnh và chức năng sai biệt cần thiết. Đă
là một con người hay một sinh vật, ta không thể sống Độc Lập mà
không cần tới những tương thuộc. Tất cả những đơn tử vật chất hay
tinh thần luôn là thành tố nhất định cho mọi hiện hữu, từ con
người cho đến con chim hay một chiếc phi cơ đang bay trên không.
Mọi hiện hữu luôn h́nh thành bằng sự tương tác lẫn nhau qua các
nhân duyên.
Thân xác sinh lư và tinh thần của chúng ta luôn
ảnh hưởng qua lại với nhau theo qui luật trên. H́nh thái tồn tại
của chúng được qui định bởi những ǵ đă cấu tạo nên chúng để tùy
thuộc vào đó mà chúng mất c̣n. Ở đây ta có thể lấy đôi mắt làm
trường hợp thí dụ. Một cảnh quan tốt hay xấu bất luận, khi lọt vào
nhăn quan ta, nó phải cùng lúc được ghi nhận với các thành tố tâm
lư liên hệ, đồng thời nó phải là một đối tượng nằm trong thị lực
cho phép của ta nữa. Ta không thể nh́n thấy nếu không có đôi mắt
hoặc đối tượng đó nằm ở một góc độ không thích hợp và nếu có một
thị lực tốt nhưng cứ nh́n vào khoảng không gian trong suốt vời vợi
th́ đôi mắt ta cũng không thấy được ǵ hết. Bằng vào sự tỉnh thức
của trí tuệ Thiền Quán, ta sẽ thấy rơ ràng toàn bộ thế giới với cả
những kinh nghiệm của ta về nó cũng chỉ là các uẩn trong Ngũ Uẩn
và cái gọi là Đau Khổ cũng chỉ là sản phẩm phù du của ḷng ham
muốn mộng mị tự đáy ḷng ḿnh, một t́nh trạng tâm lư bệnh hoạn yếu
hèn.
Cảnh giới cảm nghiệm của chúng ta thực ra chỉ
là một tuồng giả lập của Tứ Danh Uẩn, điểm hợp quần của các đơn vị
tâm lư: Một ư thức (Thức Uẩn) khi phát khởi để tri nhận sự vật nào
đó phải luôn cùng lúc gắn liền với một cảm giác vui buồn (Thọ Uẩn)
rồi là một kinh nghiệm dựa theo những khái niệm hay hồi ức sẵn có
(Tưởng Uẩn) để đi đến một thái độ xử lư vấn đề theo một khuynh
hướng tốt xấu nào đó mang giá trị quyết định tính chất của một đơn
vị ư thức mà ta vẫn gọi là sự cảm nghiệm đời sống (Hành Uẩn). Tất
cả những chi tiết ư thức này diễn ra một cách chớp nhoáng đủ để ta
có một ảo giác về một ảnh tượng, vật thể nào đó mà ḿnh vẫn ngỡ là
đă nắm bắt được vận tốc và ư nghĩa tồn tại thực sự của nó. Chính
ảo giác này đă tạo ra cái Tôi ngộ nhận mà chúng ta vẫn trân trọng
quan tâm!
Hăy sống tỉnh thức, gh́m cương ḿnh lại và nội
quán cẩn thận để nhờ vậy, trong từng hơi thở đi qua ta sẽ thấy
được mọi thứ trên đời chỉ là những hiện tượng trôi chảy triền miên,
xê dịch liên tục, không có ǵ là một thực thể hằng tại và sự đầu
tư những tham đắm về cuộc đời chỉ có ư nghĩa tự chuốc lấy thất
vọng. Điều này có nghĩa là sự nh́n ngắm tinh tế các quá tŕnh vận
động của các tư tưởng, cảm giác cùng mọi kinh nghiệm khác sẽ giúp
cho khái niệm về một cái Tôi sẽ được phá vỡ và ḷng tham chấp đối
với nó cũng được giải quyết theo đó. Đây là cả một sự hoán chuyển
và thoát xác cực kỳ quan trọng trong đời sống tâm linh của chúng
ta. Ta sẽ bắt đầu thấy được bản chất như thật của mọi sự vật. Con
đường nội quán và trí tuệ cứ thế mà thành tựu. Chúng ta chỉ có thể
được hạnh phúc thật sự từ khả năng trí tuệ này chỉ v́ một lư do
thật đơn giản: Không bị câu thúc trong bất cứ sự bám víu nào và
đây chính là một khỏe tinh thần mà chúng ta tuyệt đối cần đến.
Đức Phật đă tuyên bố rằng lư Tứ Đế là một hệ
thống giáo lư hoàn hảo một cách tối yếu mà chính Ngài đă chứng ngộ
để trở thành một vị Chánh Đẳng Chánh Giác. Giáo lư Tứ Đế bao gồm
bốn phạm trù căn bản: Khổ đau và nguồn cội của nó, sự giải thoát
khổ đau và hành tŕnh dẫn đến cứu cánh đó. Nếu xem đau khổ là một
căn bệnh th́ liệu pháp của Phật Giáo tức đệ tứ Thánh Đế được gói
ghém trọn vẹn trong giáo lư Tam Học: Giới học, Định học và Tuệ
học. Đối với chúng ta, thiền định là phương pháp trau luyện, b́nh
ổn và thanh lọc tâm hồn. Ta hăy tưởng tượng xem nếu có một viên
ngọc nằm dưới đáy sâu của một bể nước luôn nổi sóng và bị khuấy
đục bởi những bùn śnh, đất cát th́ dù có đứng trên thuyền nh́n
xuống, ta cũng không tài nào nh́n thấy được viên ngọc kia. Nhưng
nếu ở một bể nước phẳng lặng, trong suốt, không cặn cáu th́ việc
nh́n thấy một viên ngọc nằm bên dưới sẽ dễ dàng hơn bởi trong điều
kiện thích hợp này, ánh sáng của viên ngọc có thể giúp ta định vị
được nó.
Cũng cứ như vậy mà hiểu. Một nội tâm tạp loạn
và hỗn độn mông muội luôn là một trở lực ngăn ngại cho trí tuệ. Dĩ
nhiên, việc dàn xếp một nội tâm kiểu đó không thể đơn giản như
việc kiếm t́m viên ngọc trong bể nước bởi chúng ta không thể ngồi
chờ đợi một trí tuệ xuất hiện một cách bị động như người ta có thể
ngồi chờ đợi cái thời điểm yên tĩnh của bể nước để thấy viên ngọc.
Ở đây chúng ta phải biết tỏ ra hết sức năng động và cùng lúc huy
động tất cả các khả năng tập trung cùng công phu nội quán tức sự
tĩnh lặng và trong sáng để xác định thực tại, đối tượng của trí
tuệ Thiền Quán. Ở trung tâm Forest Hermitage, tôi đă đề nghị các
thiền sinh trau dồi định tâm bằng phép tu Từ tâm và thực hành pháp
môn Thiền quán bằng con đường hàm dưỡng Chánh Niệm. Hai pháp môn
này được tôi cho áp dụng song hành nhằm hỗ tương nhau.
Có một điều mà tôi muốn nói thêm ở đây là trong
các giờ thiền tọa, chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những đau đớn tâm
sinh lư nói chung. Chúng có thể là các cảm giác tê mỏi hay nhức
buốt ở một vùng cơ thể nào đó hoặc những tư tưởng, hồi ức có nguy
cơ khơi gợi ở chúng ta một nỗi đau tâm lư hoàn toàn bất lợi cho
công phu thiền quán của ḿnh. Chúng ta có thể tận dụng chúng để tu
tập được hay không th́ điều này c̣n tùy thuộc vào khả năng tự lực
của bản thân thông qua tŕnh độ định tĩnh và nội quán tự chính
ḿnh. Một khi đă nhận diện được một nỗi đau đớn nào đó, bất luận
thuộc về tinh thần hay thể xác, bước đi cần thiết của chúng ta là
bằng vào sức mạnh định tĩnh của nội tâm, hăy cố gắng đưa ḿnh ra
khỏi cơn đau đó, không lún ch́m trong nó, bằng sự quay về với đề
mục căn bản mà ḿnh đang đi theo bằng một sức mạnh tập trung càng
lớn càng tốt.
Có tu tập về Từ Tâm, chúng ta mới dễ dàng có
được cái nh́n khoáng đạt về những nỗi đau. Pháp môn này giúp ta
giải phóng các áp lực của từng cơn bức xúc khó chịu của tâm sinh
lư và đưa ta nhanh chóng quay lại với án xứ Thiền Quán của ḿnh.
Chúng ta thường có thói quen dùng sự tập trung tư tưởng như một
biện pháp trấn áp, đề kháng, đối diện với các cơn đau mà quên rằng
điều này tuyệt nhiên không phải là cần thiết. Ta đừng bao giờ có ư
muốn chối từ hay trốn chạy nó mà ngược lại chỉ nên tập trung vào
đề mục án xứ của ḿnh với một sự chú niệm đúng mức, dẹp bỏ hoàn
toàn mọi ư niệm đối kháng. Đó là nói về trường hợp vận dụng Từ Tâm
làm phương tiện Tu Quán và có thể xem đây là một công đoạn thứ
nhất.
Ở bước thứ hai với trí tuệ nội quán khách quan,
chúng ta huy động Chánh Niệm để ngắm nh́n từng cơn đau đi qua trên
thân hay trong tâm ḿnh. Về ư nghĩa căn bản rốt ráo nhất, Thiền
quán là sự tập trung tất cả tỉnh thức qua mỗi cảm nghiệm thực tại.
Thực ra có rất nhiều phương cách để giúp chúng
ta thực hiện được điều vừa nói và thật tuyệt vời nếu ta có thể tự
ḿnh đưa chúng vào đời sống thường nhật của ḿnh, đặc biệt là một
sự hướng dẫn chuyên môn nào đó. Tất cả những đau đớn được nhận
diện qua con đường này sẽ không c̣n là vấn đề nghiêm trọng nữa.
Chúng có thể mất đi hay lại tái hiện nếu ta chỉ đón nhận chúng
bằng một thái độ thuần cảm giác. Nhưng cứ khởi sự trắc lượng chúng
bằng sự tỉnh táo nhất, ta sẽ thấy chúng thật ra không hề là một
Nỗi Đau nào cả, cũng không phải là một thực thể riêng tư chuyên
biệt chi hết mà chỉ đơn giản là từng giai đoạn chuyển hóa liên tục
của các cảm nghiệm luôn trôi chảy không ngừng để tương tác lẫn
nhau tạo ra cái mà chúng ta gọi là Đau Khổ. Chúng ta lúc này coi
như đang sống hết ḿnh với kinh nghiệm nội quán và cách đối diện
với các nỗi đau theo phương cách này xem ra trung thực và nhiều ư
nghĩa hơn. Bởi ta đă thấy nó và học hỏi nhiều điều từ nó. Tất cả
nỗi đau luôn có thể đem lại cho ta những bài học quan trọng: Chúng
giúp ta hiểu rằng chúng rất đỗi phù du và không ngừng biến động,
ta chỉ càng nuôi lớn chúng khi chỉ biết sợ hăi và chán ghét chúng,
quan tâm nhiều tới chúng. Chúng ta có thể v́ vô minh mà bị chính
những nỗi đau che khuất trí tuệ bằng cách nghĩ đến một trạng thái
nào đó khả dĩ thế chỗ cho những cơn đau, cái ǵ cũng được và có ra
sao cũng mặc, miễn là không phải chúng th́ được. Đây cũng là một
t́nh trạng sinh lư thiếu sinh lực. Có nhận ra điều này th́ xem như
chúng ta đă thực sự tiến bộ.
Nói tóm lại, điểm kỳ diệu của Thiền Quán là
chúng ta có thể lấy bất cứ cái ǵ làm án xứ tu tập cũng được và
mọi sự trên đời luôn có thể là từng bước tiến của chúng ta. Bất cứ
thực tại nào xảy đến, ta chỉ việc quan sát một cách tinh tường.
Không để nội tâm ḿnh bị tác động xấu từ bất luận cái ǵ mà chỉ
ngắm nh́n nó như là nó bằng tất cả ư thức tỉnh táo. Nó ra sao th́
thấy như vậy, không đánh giá thông qua một lăng kính chủ quan nào
hết. Mọi thứ luôn luôn tương đối một cách tuyệt đối. Cái ǵ rồi
cũng đổi khác, hăy nên sống trọn vẹn với hiện tại, nó kỳ diệu và
cần thiết. Chỉ có cái Đang Là mới thực sự là cái mà chúng ta sở
hữu được và t́m thấy ở đó một khả năng trí tuệ. Lời kết thúc cho
bài viết này là hăy thận trọng đời sống tâm linh, giữ được tinh
thần an vui, thấu đáo bản chất như thật của mọi sự để có được một
sức mạnh tâm linh.
Chúng ta hăy lên đường để thực nghiệm điều đó
và nguyện cầu mọi người luôn được an lành.
|